Sông hương dòng sông của lịch sử và thi ca :Cảm nhận sông Hương dưới góc nhìn lịch sử, văn hóa trong Ai đã đặt tên cho dòng sông- Hoàng Phủ Ngọc Tường
1. Dàn ý Cảm nhận sông Hương dưới góc nhìn lịch sử
a) Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút chuyên viết kí và Huế là quê hương văn học đích thực của ông. Tác phẩm của ông có rất nhiều ánh lửa của tình yêu thiên nhiên đất nước và con người Việt Nam; kết hợp chặt chẽ giữa trí tuệ và trữ tình, nghị luận sắc bén và suy tư nhiều chiều, tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng. “Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất nước ta hiện nay” (Nguyên Ngọc).
+ “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là tùy bút được tác giả viết tại Huế, 1-1981, đăng báo Văn nghệ, đưa vào tập ký cùng tên năm 1986.
Xem thêmVẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn thi ca.
b) Thân bài
* Giải thích ý kiến
– Vẻ đẹp nổi bật hiện lên trên bề nổi thường gây ấn tượng vượt trội dễ dàng cả bằng trực quan. Ý kiến thứ nhất coi cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trữ tình là nét đẹp nổi bật của sông Hương.
– Vẻ đẹp bề sâu là vẻ đẹp ẩn chìm, khuất lấp, không dễ dàng phát hiện mà đòi hỏi phải có tri thức phong phú, những chiêm nghiệm sâu sắc mới khám phá ra được. Ý kiến thứ hai coi những trầm tích văn hóa, lịch sử là vẻ đẹp bề sâu của sông Hương.
* Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương theo định hướng ý kiến
– Cảnh sắc nhiên thiên thơ mộng, tình tứ
+ Sông Hương thuộc thành phố duy nhất
Sông Hương là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời mà đất trời tặng riêng cho xứ Huế. Suốt hành trình từ thượng nguồn xa xôi đến khi đổ ra biển lớn, sông Hương vẫn nằm trong vòng tay ôm ấp của xứ Huế mộng và thơ. Nghĩ đến tình yêu chung thủy của Hương Giang dành cho xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường không khỏi bồi hồi xúc động: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về thành phố duy nhất”. Chỉ bằng một câu văn giản dị, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ghim vào lòng người đọc vẻ đẹp độc đáo của sông Hương.
+ Sông Hương ở thượng nguồn
Sông Hương được miêu tả với những đối cực:
Sông Hương “là bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hoành tráng, dữ dội khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn” Và sông Hương khi “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Sử dụng động từ, tính từ mạnh diễn tả vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn mang sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính. Hình ảnh có sức gợi, sức liên tưởng cao khiến người đọc cảm nhận sông Hương như một thực thể tràn đầy nhựa sống, mạnh mẽ và cá tính
Sông Hương như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, có “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Sông Hương như “cô gái đã bị chế ngự bản năng” “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”, “là người mẹ phù sa”, mang vẻ đẹp còn phong kín, bí ẩn. Các từ đi theo cặp, có sự hòa thanh kết hợp với thủ pháp so sánh nhân hóa khiến sông Hương giống như là cô gái đẹp, cá tính luôn căng tràn sức sống, lại giống như người mẹ hiền nuôi dưỡng sự sống. Sông Hương mang nét đẹp của con người xứ Huế, là một phần của Huế hay chính sông Hương đã góp phần tạo nên một tạng riêng của con người xứ Huế.
=>Thủ pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng kì thú, độc đáo kết hợp với cách sử dụng hình ảnh ấn tượng để làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn, một dòng sông hoang dại, phóng khoáng nhưng không kém phần trữ tình, bí ẩn.
+ Sông Hương ở ngoại vi thành phố
Về đến đồng bằng, sông Hương có những thay đổi và bộc lộ nhiều vẻ đẹp đa dạng:
Thay đổi:
+ Thay đổi về tính cách: “mang sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
+ Thay đổi hình dáng: “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm” “mềm như tấm lụa” “uốn một cánh cung rất nhẹ…đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”.
=> Những thay đổi về mặt tự nhiên có thể giải thích được lại được tác giả giải thích bằng một tầm nhìn khác: dường như những thay đổi của sông Hương không phải do địa hình tự nhiên mà nó là bản chất, là thuộc tính của dòng Hương Giang. Về đến đồng bằng, con sông đã thực sự trở về với tính cách dịu dàng mềm mại linh hoạt. Từ tượng hình và cách liên tưởng táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đang nhìn sông Hương như một người con gái đáng yêu của xứ sở mình.
Vẻ đẹp đa dạng:
+ Cảnh đẹp sông Hương như bức tranh nhiều đường nét: Vẻ đẹp đa màu sắc, biến ảo: “sắc nước trở nên xanh thẳm” “những phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố”, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” -> cho thấy sự quan sát tinh tế, sâu sắc.
+ Vẻ đẹp trầm mặc mang màu sắc triết lí, cổ thi: sông Hương chảy dưới chân những rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ -> nếu không sống, hiểu và hoài niệm về sông Hương thì tác giả không thể có cái nhìn đầy suy tư và chiêm nghiệm như thế. Để thấu thị được vẻ đẹp đó, nhà văn phải là người am hiểu lịch sử của dòng sông. Vẻ đẹp vui tươi giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô. Vẻ đẹp mơ màng trong sương khói khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ.
=> Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải đang viết về sông Hương như một cảnh đẹp tự nhiên của xứ Huế mà là đang viết về sông Hương như một người con của mảnh đất quê hương, một phần cơ thể của xứ Huế thơ mộng, lãng mạn và trữ tình. Thủ pháp so sánh, liên tưởng rộng tự do phóng khoáng rất đặc trưng của kí đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường sử dụng tối đa đã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.
+ Cảnh sắc sông Hương ở trong lòng thành phố
Vẫn là thái độ và cử chỉ của người tình đang yêu khi tả sông Hương vào gặp thành phố cổ: vui tươi hẳn lên, uốn cánh tung nhẹ, mềm hẳn đi như tiếng vâng không nói của tình yêu. So sánh lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi cánh cung của dòng sông => cái nhìn tình tứ, thống nhất, đem lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ độc đáo.
Liên tưởng của tác giả: So sánh mở rộng với sông Xen, sông Danuyp để thấy sự tương đồng – những dòng sông chảy qua, giữa lòng thủ đô, thành phố Châu Âu, Châu Á. So sánh với dòng Nê-va chảy qua Xanh Petecbua (Nga) để lắng nghe được cái nhịp chậm rãi buồn bâng khuâng của điệu slow, ngập ngừng nửa đi nửa ở trước khi dòng sông xuôi ra biển cả như nỗi vương vấn, và chút lẳng lơ, kín đáo…
=> Nét độc đáo nhất của dòng sông Hương đoạn này chính là ở những chi tiết và suy tư cảm nhận của một người con rất yêu, rất hiểu dòng sông và kinh thành Huế. Nghệ thuật nhân hóa khiến Hương Giang giống như một người con gái đẹp đang đi tìm người tình mong đợi – một hành trình gian truân và cũng không hề ngắn ngủi, một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó; sông Hương mang vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và nghĩa tình.
b.1) Vẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn văn hóa
* Từ góc độ hội họa:
– Sông Hương cùng những chi lưu của nó tạo nên những đường nét tinh tế làm nên vẻ đẹp cố đô: kéo một nét thẳng mục, chiếc cầu trắng in ngần trên bầu trời như một vầng trăng non, những cây dừa, cây đa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít… những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ…
* Từ góc độ âm nhạc
– “Con sông Hương của tôi (…) điệu chảy lặng lờ (…) Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”
=> Dòng chảy con sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế.
– “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”
– “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.
=> Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn phát hiện sâu sắc: bản đàn của xứ Huế chính là “bản đàn đi suốt đời Kiều” và “Tứ đại cảnh” đã kịp vọng vào trong bản đàn của Kiều, trở thành tiếng nói đồng điệu với tâm hồn Kiều.
* Từ góc độ thi ca
– “Có một dòng thi ca về sông Hương”, “dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ” => Sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận.
– Mỗi nhà thơ có một khám phá riêng về nét đẹp của dòng sông này:
+ Tản Đà: “Dòng sông trắng – lá cây xanh” =>Từ xanh biếc thường ngày bỗng thay màu rực rỡ, bất ngờ.
+ Cao Bá Quát: “như kiếm dựng trời xanh”=> hiên ngang hùng tráng.
+ Bà Huyện Thanh Quan: nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng.
+ Tố Hữu: Sức mạnh phục sinh trong tâm hồn; trong sự đồng cảm cùng đại thi hào Nguyễn Du.
=> Sông Hương mang đến niềm cảm hứng bất tận, mới mẻ cho các nghệ sĩ.
– Các tác giả, tác phẩm viết về Huế và dòng sông Hương: Thu Bồn, Nguyễn Trọng Tạo, Hàn Mặc Tử…
* Dòng sông Hương với những phong tục, vẻ đẹp tâm hồn người dân xứ Huế
– Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng
– Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: dịu dàng, trầm tư
=> Từ đầu đoạn trích, miêu tả về sông Hương, nhưng không phải như một phong cảnh đẹp mà tác giả khắc họa nó giống như một con người xứ Huế (cô gái, mẹ hiền…) gần gũi, thân thiết, giàu tình cảm.
=> Đoạn văn thể hiện sự uyên bác tài hoa của tác giả trong cái nhìn liên tưởng độc đáo cùng với những triết luận sâu sắc về mối quan hệ giữa dòng sông với thi ca, nhạc, họa. Ngôn từ chau chuốt, mềm mại, giàu chất thơ. Hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo (sông Hương như người tài nữ, là dòng sông không tự lặp lại mình…)
b.2) Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với các sự kiện lịch sử
– Dòng sông Hương không chỉ mang trong mình nét đẹp tự nhiên với những đường nét mềm mại, không chỉ nổi bật trên nền văn hóa cổ kính, trầm lắng mà còn khiến tác giả ấn tượng mạnh mẽ về bề dày lịch sử của nó.
– Sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thủa còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Tên của sông Hương được ghi trong Dư địa chí (1435) của Nguyễn Trãi: Linh Giang (nghĩa là dòng sông thiêng).
=> Sông Hương là một chứng nhân lịch sử, đã gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc. Sông Hương, là “người lưu dấu ngàn năm”, là “con mắt của đất cựu thần kinh”, là “trái tim của xứ Huế”. Vẻ đẹp sử thi của sông Hương: là vẻ đẹp của những chiến công gắn với mốc lịch sử trọng đại của đất nước. Nhưng độc đáo và tinh tường của tác giả thể hiện ở chỗ phát hiện ra chất thơ trong sử. Chính diện mạo và chiều sâu của lịch sử dân tộc khi in bóng xuống dòng sông đã mang lại cho Sông Hương một tầm vóc kì vĩ, lớn lao, một ý nghĩa thiêng liêng và một tinh thần bất diệt. Sông Hương không chỉ in dấu lịch sử, song hành cùng lịch sử mà còn chứa đựng lịch sử của riêng nó.
* Bình luận ý kiến
Ta dễ dàng nhận thấy, hai ý kiến nhận xét đều phù hợp và có cơ sở, không đi vào cụ thể chi tiết, hai ý kiến đều vươn tới tầm khái quát cao. Ý kiến thứ nhất nghiêng về ngợi ca khẳng định vẻ đẹp thơ mộng của cảnh sắc thiên nhiên địa lí. Ý kiến thứ hai lại đi sâu khám phá giá trị văn hóa lịch sử của dòng sông.
Mối quan hệ giữa hai ý kiến: hai ý kiến có vẻ khác nhau nhưng không đối lập tương phản mà bổ sung, tương hỗ cho nhau, hợp thành cái nhìn toàn diện thống nhất.
c) Kết bài
– “Thế giới không phải được tạo lập một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới tạo lập”. Điều quan trọng nhất trong nghề văn là tác giả phải in được dấu ấn riêng, có cách cảm nhận riêng, không trộn lẫn với ai. Với thiên tùy bút lấp lánh bao ánh lửa, “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ghi được dấu ấn riêng như thế để vẻ đẹp thơ mộng tình tứ đằm sâu giá trị văn hóa lịch sử sông Hương mãi ám ảnh tâm trí người đọc.
2. bài viết tham khảo – Vẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn văn hóa thi ca
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt, Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được…” Huế là nơi con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau là một, nếu đã đến Huế chắc hẳn mỗi chúng ta sẽ cảm nhận được điều này. Và có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một lần ngắm nhìn sông Hương xuôi dòng. Con sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Chính vì thế mà từ bao giờ nó đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn chương nói riêng và nghệ thuật nói chung. Một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương chính là tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ngoài vẻ đẹp thơ mộng, dịu dàng mà nó mang trong mình thì đây còn là một dòng sông gắn với lịch sử đất nước và văn hóa xứ Huế nói riêng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, song gần như suốt cuộc đời, ông gắn bó với xứ Huế yêu thương. Chính vì ông là một con người dành nhiều tình cảm cho xứ Huế nên tâm hồn nhà văn thấm đẫm đặc trưng của văn hóa Huế. Năm 1960, ông tốt nghiệp ban Việt – Hán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Triết – Văn Đại học Huế. Sau đó, ông về dạy tại trường Quốc học Huế. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ, ông đã giữ các chức vụ: Tổng thư kí Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên.
Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương là dòng “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” theo dòng thời gian sông Hương là chứng nhân lịch sử, nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá khứ gian truân mà hào hùng của đất nước để cảm nhận được hết nét đẹp này của sông Hương. Nó chính là một ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc đã bao lần làm quân thù khiếp sợ. Châu Hóa giữ vị trí chiến lược trong việc trấn giữ biên cương của Tổ quốc Đại Việt. Lịch sử đã gọi nó là Vạn Lí Trường Thành của Phương Nam. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng Linh Giang âm vang lịch sử, là dòng sông biên thùy từng chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Thế kỉ XVIII nó soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa. Thế kỉ XX, sông Hương đi vào Cách mạng tháng tám bằng những chiến công rung chuyển để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua bao thăng trầm lịch sử. Khi hòa bình lặp lại, sông Hương đã trở về cuộc sống đời thường khi đó nó là một người con gái dịu dàng của đất nước. Xuyên suốt trang văn của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng Hương Giang. Ông đã hiểu một cách thấu đáo, sông Hương từ cội nguồn của nó cho đến khi đổ ra biển Đông đều gắn với lịch sử dựng và giữ nước oai hùng của dân tộc.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chìm trong vẽ đẹp của Hương Giang để phát hiện ra cái nôi văn hóa của kinh thành Huế đã được khai sinh.Từ đây bằng vốn kiến thức am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực âm nhạc, thi ca văn hóa truyền thống, ông khẳng định ” toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này” từ nhã nhạc cung đình, ca Huế, cho đến những điệu hò dân gian, mái nhì, mái đẩy. Ai đã từng nghe ca Huế trên sông Hương mới có thể cảm nhận hết nét thơ mộng, lãng mạn của hồn điệu dân gian xứ Huế, trong trường liên tưởng của mình tác giả phát hiện ra mối quan hệ giữa những bản nhạc xưa của Huế với truyện Kiều của Nguyễn Du để thấy được sự giao thoa tương đồng giữa thơ và nhạc.
Vẻ đẹp của sông Hương không được tô đậm, nếu nhà văn quên đi một dòng sông thi ca. Dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ và họ chưa bao giờ lặp lại mình. Khi nhìn vẻ đẹp của Hương Giang nó vẫn mãi mãi là nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới, thi sĩ Tản Đà gọi dòng sông xanh biếc ấy là ” dòng sông trắng, lá cây xanh”. Từ một Linh Giang mơ màng sông Hương còn bảng lảng nỗi sầu vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan. Đó còn là hình ảnh dòng sông mang tráng khí cao người anh hùng Cao Bá Quát “Trường giang như kiếm dựng thanh niên”. Suy cho cùng vẻ đẹp phong phú biến ảo của Hương giang đã chảy qua những tâm hồn, những trang thơ, trang văn của người nghệ sĩ làm phong phú thêm mạch nguồn thi ca dân tộc.
Có người đã từng nói rằng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường rất uyên bác với vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật xứ Huế. Đó là sự uyên bác của một nhà Huế học. Nhận xét đó rất đúng với nhà văn, ông đã mang đến cho người đọc những kiến thức rất mới mẽ, sâu sắc về văn học Huế. Có lẽ vì yêu mến dòng sông Hương nên vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên ấy đã khơi gợi nguồn cảm hứng để những nghệ nhân xưa may trang phục truyền thống của cô dâu Huế theo đúng màu sương khói trên sông Hương. Họ kết hợp loại vải vằn thưa màu xanh chàm với màu đỏ để làm nên một màu tím nhân loại của xứ Huế. Sự phát hiện ấy cho thấy sự am tường về văn hóa Huế đồng thời lối viết rất độc đáo, sáng tạo, bày tỏ được cảm xúc mến thương dành cho sông Hương và xứ Huế.
Chất trí tuệ và chất thơ trong bài kí là biểu hiện của một phong cách văn xuôi vừa tài hoa nghệ sĩ vừa uyên bác. Ở bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông có sự hòa hợp tương giao linh ứng giữa cảnh sắc, lịch sử, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, vô cùng nhạy cảm. Qua bài kí, ta có thể cảm nhận được tấm lòng của nhà văn dành cho thiên nhiên, cho đất Huế, sâu xa hơn là tấm lòng cho quê hương đất nước, thiết tha với những giá trị cổ xưa của dân tộc. Đó là những giá trị mà cuộc sống hôm nay vẫn cần đến. Dòng sông Hương không chỉ bồi đắp nên một nền văn hóa cố đô mà còn làm màu mỡ thêm cho cuộc sống của mỗi chúng ta hiện tại.
==> Tham khảo nhiều bài văn hay tại icongchuc.com
Bài viết khác cùng mục: