Soạn văn Trích diễm thi tập – SGK ngữ văn 10 tập 2

Đây là bài viết số [part not set] trong 8 bài viết của loạt series Ngữ Văn 10
Soạn văn Trích diễm thi tập – SGK ngữ văn 10 tập 2.
Soạn văn Trích diễm thi tập
Soạn văn Trích diễm thi tập

Câu 1 (trang 30 SGK Ngữ văn 10 tập 2) – Soạn văn Trích diễm thi tập

Theo Hoàng Đức Lương, có những nguyên nhân nào khiến sáng tác thơ văn của người xưa không lưu truyền đầy đủ cho đời sau? Cho biết nghệ thuật lập luận của tác giả.
 
Lời giải chi tiết:
 
a. Bốn lý do khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời sau
 
– Lý do thứ nhất: Chỉ có thi nhân mới thấy được cái hay, cái đẹp của thi ca. Có thể đặt tên cho lý do này là “ít người am hiểu”.
 
– Lý do thứ hai: Người có học thì bận rộn chốn quan trường hoặc lận đận trong khoa cử, ít để ý đến thơ ca. Có thể đặt tên cho lý do này là “Danh sĩ bận rộn”.
 
– Lý do thứ ba: Có người quan tâm đến thơ ca nhưng không đủ năng lực và kiên trì. Có thể đặt tên cho lý do này là “Thiếu người tâm huyết”.
 
– Lý do thứ tư: Triều đình chưa quan tâm. Có thể đặt tên cho lý do này là “Chưa có lệnh vua”…
 
      Ngoài bốn lý do thuộc về chủ quan, tác giả còn nêu lý do thuộc về khách quan. Đoạn tiếp theo từ “Vì bốn lý do kể trên…” đến “… mà không rách nát tan tành” là lý do thứ năm: thời gian và binh hoả có sức huỷ hoại ghê sớm. Đoạn văn kết lại bằng một câu hỏi tu từ có ý nghĩa phủ định: “… thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành?” Câu hỏi biểu hiện nỗi xót xa của tác giả trước thực trạng đau lòng. Đó là nguyên nhân thôi thúc tác giả làm sách Trích diễm thi tập.
 
b. Nghệ thuật lập luận
 
– Nghệ thuật liên tưởng, so sánh thơ văn như khoái trá, gấm vóc, sắc đẹp ngoài sắc đẹp…
 
– Phương pháp lập luận quy nạp.
 
– Dùng câu hỏi tu từ: làm sao giữ mãi… được mà không…
 
     Bài tựa vào lập luận chặt chẽ, chất trữ tình hoà quyện vào chất nghị luận. Tác giả trình bày luận điểm một cách rõ ràng, mạch lạc và khúc chiết. Lòng yêu nước được thể hiện ở thái độ trân trọng di sản văn hoá của cha ông, niềm đau xót trước thực trạng. Qua lời tựa, người đọc còn thấy được cả không khí thời đại cùng tâm trạng của tác giả.

Câu 2 (trang 30 SGK Ngữ văn 10 tập 2)

Hoàng Đức Lương đã làm gì để sưu tầm thơ văn của tiên nhân?
 
Lời giải chi tiết:
 
– Để hoàn thành Trích diễm thi tập Hoàng Đức Lương đã phải:
 
+ “Tìm quanh hỏi khắp” để sưu tầm thơ ca của những người đi trước.
 
+ Rồi tác giả “thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm quan trong triều”.
 
+ Sau đó đặt tên sách là Trích diễm, gồm 6 quyển.
 
=> Đây là công việc đòi hỏi tốn nhiều thời gian, công sức, người không tâm huyết sẽ không làm được.

Câu 3 (trang 30 SGK Ngữ văn 10 tập 2)

Điều gì thôi thúc Hoàng Đức Lương vượt khó khăn để biên soạn tuyển tập thơ này? Anh (chị) có cảm nghĩ gì về công việc sưu tầm, biên soạn thơ văn của ông?
 
Lời giải chi tiết:
 
* Để trả lời câu hỏi này cần có cái nhìn tổng hợp toàn bài cần nhấn mạnh đến những ý sau:
 
– Niềm tự hào về văn hiến dân tộc.
 
– Ý thức trách nhiệm trước di sản văn học của cha ông bị thất lạc.
 
– Tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí tự cường trong văn học.
 
* Cảm nghĩ về việc sưu tầm, biên soạn của Hoàng Đức Lương:
 
– Là công việc hết sức khó khăn, gặp nhiều trở ngại
 
– Công việc thể hiện ý thức trách nhiệm rất cao khi gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc
 
– Công việc có ý nghĩa lớn lao, về mặt tinh thần, đáng trân trọng.

Câu 4 (trang 30 SGK Ngữ văn 10 tập 2)

Anh (chị) cho biết, trước Trích diễm thi tập đã có ý kiến nào nói về văn hiến dân tộc.
 
Lời giải chi tiết:
 
– Trước Hoàng Đức Lương, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng đã từng đề cập đến nền văn hiến của dân tộc:
 
              Như nước Đại Việt ta từ trước
 
              Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
 
 
=> Cả hai ý kiến đều phản ánh ý thức độc lập dân tộc và niềm tự hào về văn hiến dân tộc của nhân dân Việt Nam đang trên đà được khẳng định.
LUYỆN TẬP
 

Câu hỏi (trang 30 SGK Ngữ văn 10 tập 2)

Tìm các dẫn chứng chứng tỏ các nhà văn, nhà thơ thời xưa rất tự hào về nền văn hiến dân tộc. (Gợi ý: đọc lại phần một của tác phẩm Đại cáo bình Ngô).
 
Lời giải chi tiết:
 
   Ngoài bài tựa của Hoàng Đức Lương, bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi còn nhiều tác phẩm của các tác giả khác như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt (mặc dù chỉ là gián tiếp), Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hiền tài là nguyên khí quốc gia (Bài kí để danh bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) của Thân Nhân Trung là những dẫn chứng chứng tỏ các nhà văn, nhà thơ thời xưa rất tự hào về nền văn hiến dân tộc.
Bố cục: 2 phần
 
– Phần 1: Từ đầu đến “rách nát tan tành?”: Những nguyên nhân khiến thơ văn không lưu truyền đầy đủ
 
– Phần 2: Còn lại: Niềm tự hào, ý thức trách nhiệm của tác giả đối với nền thơ ca dân tộc.
 
Bài viết cùng series:
Like share và ủng hộ chúng mình nhé: