Phân tích nhân vật người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu để thấy vẻ đẹp của người phụ nữ làng chài cũng như hiểu được số phận của những người phụ nữ khắc khổ và luôn cam chịu để chăm lo cho gia đình. Trong bài viết sau, hãy cùng icongchuc tìm hiểu, cảm nhận và phân tích nhân vật người đàn bà làng chài.
Phân tích nhân vật người đàn bà làng chài trong Chiếc Thuyền Ngoài Xa.
Nguyễn Minh Châu là tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 1975. Ông thành công với nhiều tác phẩm như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa…Nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài – người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh .
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng . Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.
Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,…
Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc” Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trôn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’
Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.
Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ :”Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: ” Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Chị ” phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.
Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mời hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.
Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho ông.
Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : “..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
NHÂN VẬT NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI (“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”)
“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống…”
Nguyễn Minh Châu là một trong những người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học nước nhà từ sau năm 1975. Đóng góp sâu sắc của ông đã được giáo sư Nguyễn Văn Hạnh ghi lại trong tác phẩm “Nguyễn Minh Châu trong những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người”. Và cũng trong giai đoạn này, nhà văn đã cho ra đời truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu lúc bấy giờ là lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Tác phẩm đã tập trung khắc họa nhân vật người đàn bà hàng chài vốn gây nhiều ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Thường xuyên bị người chồng vũ phu đánh đập nhưng vì thương con, người phụ nữ này vẫn cam chịu, rất bản lĩnh để bảo vệ hạnh phúc gia đình bình dị của mình. Qua đó, Nguyễn Minh Châu ca ngợi những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam: nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh đồng thời gửi đến những người nghệ sĩ bức thông điệp: muốn hiểu đúng con người và cuộc sống cần phải có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc và đa chiều.
Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng” của văn học nước ta thời kì đổi mới. Hành trình sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn: trước và sau năm 1975. Nếu như trước năm 1975, ông chủ ý đi tìm vẻ đẹp của con người trong cuộc chiến tranh thì từ năm 1976 trở đi, Nguyễn Minh Châu đi sâu vào tìm tòi và khám phá con người ở mảng đời tư thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được khai sinh trong giai đoạn sáng tác thứ hai của ông và được viết theo thể truyện ngắn – một văn bản tự sự cỡ nhỏ. Nhà văn có thể chỉ “cắt lấy một lát”, “cưa lấy một khúc”, “chớp lấy một khoảnh khắc” để phản ánh bi kịch một đời người và bày tỏ quan niệm về nhân sinh. Truyện kể về nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong một lần đi về vùng biển miền Trung để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Anh rất vui khi đã chụp được một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn mờ trong sương sớm. Nhưng khi chiếc thuyền tiến vào bờ, anh kinh ngạc khi chứng kiến cảnh bạo hành gia đình của gia đình hàng chài sống trên con thuyền đó. Cũng vì thế mà người đàn bà hàng chài được mới đến tòa án huyện và tại đây, Phùng đã được nghe và thấu hiểu về câu chuyện của người đàn bà này.
Trong một buổi sớm còn mờ sương, từ chiếc thuyền vốn dĩ rất đẹp khi ở ngoài xa ấy xuất hiện hình ảnh một người đàn bà hàng chài. Chị không được nhà văn đặt cho cái tên như một sự mờ hóa nhằm tô đậm hơn số phận và cuộc đời của chị. Về ngoại hình, đối lập với chiếc thuyền mang vẻ đẹp nghệ thuật, người đàn bà có một dáng vẻ thô kệch, xấu xí. Chị trạc ngoài bốn mươi, thân hình cao lớn, “rỗ mặt” và “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”. Khuôn mặt chị hằn rõ sự mệt mỏi, có lẽ vì thức trắng đêm kéo lưới: “tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Đặc biệt, Nguyễn Minh Châu tập trung khắc họa vào ánh mắt của người đàn bà: “chị đưa cặp mắt nhìn xuống chân”, “nhìn ra ngoài bờ phá”…Cách miêu tả của nhà văn đã cho ta thấy phần nào cuộc sống lam lũ, vất vả của người đàn bà cũng nhữg thiệt thòi, tủi nhục ẩn chứa đằng sau.
Nói về số phận và tính cách, Nguyễn Minh Châu xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài có một quá khứ không mấy tốt đẹp. Thuở nhỏ, chị sinh ra đã là một người con gái xấu xí, lại thêm trận đậu mùa khiến chị bị rỗ mặt. Chị có mang với một anh con trai nhà hàng chài cục tính, hiền lành. Người đó đã trở thành ân nhân của cuộc đời chị và các con. Tuy nhiên, cuộc sống bương trải khó khăn đã khiến chị phải chịu những bi kịch về thể xác. Trong gia đình, người đàn bà đứng giữa hai thế: một bên tên chồng ngược đãi, đánh đập, một bên là những đứa con thương yêu. Đối với chồng, tuy là nạn nhân của thói bạo hành nhưng chị vẫn cam chịu, nhẫn nhục và bao dung. Tên chồng ấy đánh chị như một thói quen thường ngày: “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”. Bên cạnh đó, cách đánh của lão chồng thể hiện rõ sự bạo lực, hung hăng, hắn đánh như thể chị không phải là vợ hắn vậy: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Đọc đến đó, chúng ta chắc hẳn rất kinh ngạc trước hành động tàn bạo bất ngờ của lão chồng, dường như hắn chỉ xem vợ như một phương tiện để giải tỏa sự bực tức trong lòng lòng. Thế nhưng, chúng ta sẽ lại càng kinh ngạc hơn khi biết rằng, người vợ ấy chẳng hề chống trả mà trái lại còn cam chịu: “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Đau đớn là thế, nhục nhã và tủi phận là thế, người đàn bà hàng chài vẫn chịu đựng, bởi lẽ chị thấu hiểu lí do mà lão đàn ông trút những đòn roi lên người chị. Chính cuộc sống nghèo khổ, cảnh đông con đã biến một anh con trai hiền lành ngày nào trở thành kẻ bạo lực, vũ phu. Chiến tranh đã qua đi nhưng tàn dư của nó vẫn còn đọng lại – đó là cuộc sống nghèo khó đã làm tha hóa phẩm chất, tính cách của con người. Cũng vì thế mà người đàn bà, với lòng bao dung của mình đã cầu xin tòa án tha thứ cho chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
Qua đó, chúng ta thấu hiểu phần nào phẩm chất của người đàn bà hàng chài thất học này: chị cam chịu bởi lẽ chị hiểu nguyên do gốc của nạn bạo hành, chị cam chịu bởi lẽ chị đã chịu ơn tên chồng vì đã cưu mang cuộc đời chị. Đối với những đứa con, chị là một người mẹ giàu lòng thương yêu có đức hi sinh. Khi bị chồng đánh, thằng Phác con chị đã lao đến, giật lấy chiếc thắt lưng và quật lại bố nó và bị lão tát cho hai cái, lảo đảo ngã xuống. Đến lúc này, chị mới lên tiếng và gọi con: “Phác, con ơi”, ôm lấy nó và rồi “chắp tay vái lấy vái để”. Nếu như lời gọi con là sự đau đớn khi thấy con bị đánh ngã thì hành động vái lạy con rất lạ lùng kia lại cho thấy tình cảm sâu sắc của người mẹ. Chị biết thằng Phác vì thương chị mà đánh lại bố nhưng chị không muốn con vì nông nỗi mà làm điều trái đạo lí, bất hiếu đối với người cha. Chị đã xin lão chồng lên bờ mà đánh, chị còn gửi thằng Phác lên ở với ngoại để nó khỏi chứng kiến cảnh bạo hành… Chị rất thương con nên luôn có ý thức bảo vệ con, che chở con để con không phạm phải những sai lầm đáng tiếc. Và cũng chính những đứa con là lí do mà người đàn bà không chấp nhận bỏ chồng: “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở tên đất được”. Đó là những lời nói xuất phát từ lòng thương con vô bờ bến mà mẹ dành cho con. Còn đối với các mối quan hệ ngoài xã hội, người đàn bà tỏ ra bãn lĩnh, dũng cảm chấp nhận hoàn cảnh để bảo vệ tổ ấm gia đình. Ban đầu, khi xuất hiện ở tòa án huyện, chị tỏ ra “sợ sệt, lúng túng”, “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Có lẽ vì quen ở trên mặt nước mà chị chưa quen đến những nơi nghiêm túc như thế này.
Nhưng nguyên nhân chính khiến chị có những hành động lạ lùng như vậy chắc hẳn là do sự mặc cảm về thân phận và đặc biệt chị luôn cảm thấy mình là người có lỗi. Khi biết được thiện ý và sự quan tâm của chánh án Đẩu, chị mạnh dạn giãi bày nỗi lòng và cảnh ngộ của mình. Trước lời đề nghị của Đẩu, chị một mực từ chối và cương quyết gắn bó với người chồng vũ phu bởi lẽ tuy là người thất học nhưng chị thấi hiểu sâu sắc lẽ đời – chị nhận thức được rằng người đàn ông đó là ân nhân và là trụ cột trong gia đình chị. Trong nghề hàng chài cực khổ ấy không thể thiếu đi sức vóc của người đàn ông: “đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Nếu chị bỏ lão chồng, tức là chị vừa thất nghĩa với một người đã giúp đỡ mình, vừa có lỗi với đàn con thơ vì một mình chị không thể gánh vác nổi công việc chài lưới. Bên cạnh đó, trong cái khổ cực, người đàn bà vẫn tìm thấy những niềm vui, hạnh phúc bình dị, tuy nhỏ nhoi nhưng đáng trân trọng: “ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Chị ý thức được rằng cuộc sống gia đình chị không phải là bể khổ triền miên mà đâu đó vẫn có những khoảng thời gian các thành viên ngồi với nhau rất hạnh phúc, đầm ấm. Niềm hạnh phúc nhỏ bé ấy chính là nguồn động lực để cho người đàn bà tiếp tục với cuộc sống nghèo khó của mình để nuôi các con. Câu chuyện của người đàn bà và những nghịch lí bên trong đó đã khiến Đẩu và Phùng ngộ ra nhiều điều: con người muốn thoát ra khỏi những nghịch lí cần phải có giải pháp thiết thực chứ không bằng thiện ý, tình thương và pháp luật. Họ bỗng hiểu đằng sau hành động vũ phu của người chồng, sự cam chịu của người vợ là biết bao vấn đề nhức nhối tồn đọng trong cuộc sống của người dân.
Bằng giọng văn tự sự, triết lí kết hợp với tình huống độc đáo, Nguyễn Minh Châu thực sự thành công khi xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài. Chị là hiện thân của tình mẫu tử cao cả, giàu đức hi sinh, thủy chung với chồng và bao dung, nhân hậu. Đó cũng chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam – chất ngọc ẩn lấp trong những góc cạnh xù xì của cuộc sống mà Nguyễn Minh Châu khám phá và trân trọng. Thông qua đó, nhà văn đã lên án thói bạo hành và bày tỏ lòng thương yêu đối với những thân phận nhỏ bé, bất hạnh. Giá trị nhân đạo của tác phẩm là ở chỗ nhà văn luôn quan tâm, hướng về con người, dùng ngòi bút để cải tạo cuộc sống.
Nói tóm lại, nhân vật người đàn bà hàng chài là một phương tiện để nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi đến bạn đọc bức thông điệp về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuât, về cách nhìn nhận bản chất sự vật, hiện tượng đằng sau vẻ bề ngoài của nó. “Chiếc thuyền ngoài xa” quả thật là một tác phẩm đích thực, đã hội tụ tài năng của người nghệ sĩ suốt một đời tâm huyết với nghề, đóng góp thêm một đóa hoa nghệ thuật cho nền văn học nước nhà thêm rực rỡ.
Bài viết khác cùng mục: