[2022] Tư tưởng đất nước của nhân dân thể hiện trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích Tư tưởng đất nước của nhân dân trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng.

Tư tưởng đất nước của nhân dân thể hiện trong "Đất Nước"
Tư tưởng đất nước của nhân dân thể hiện trong “Đất Nước”

Dàn ý Phân tích Tư tưởng đất nước của nhân dân

I. Mở bài:

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sây lắng của người trí thức vì đất nước, con người Việt Nam. “Đất Nước” trích trong chương 5 trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm góp phần làm phong phú hơn, tươi mới hơn tư tưởng ấy bằng tiếng nói riêng và cách thể hiện độc đáo. Tư tưởng chủ đạo của “Đất Nước” đó là: Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.

II. Thân bài

1. Quan niệm về đất nước qua các triều đại để đi đến giải thích đất nước nhân dân.
Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng. Ở thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của đế vương, của các triều đại:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư”
(Lý Thường Kiệt)
hay ” Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Nguyễn Trãi)
Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân” nhưng dẫu sao vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.
Đến thơ ca Việt Nam thời kì 1945-1975 thì tư tưởng đất nước nhân dân được thế hệ các nhà thơ chiến sĩ nhìn nhận một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong mối quan hệ riêng – chung, tôi – ta ở đó có sự hòa quyện và tỏa sáng của tình yêu đất nước và tình yêu đôi lứa. Đất nước của nhân dân đã được các nhà thơ thể hiện đặc sắc và thành công như:
” Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
hay “Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ giữa đời
Và như thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
(Thanh Thảo)
Và tư tưởng này được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một cách sâu sắc thấm thía trong “Đất Nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng”.

2. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân.

2.1 Đất nước được nhà thơ nhìn nhận và thể hiện qua bề rộng không gian địa lí. (lấy kiến thức đoạn “Đất là nơi anh đến trường….cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” và ” những người vợ nhớ chồng….Bà Đen, Bà Điểm”)
Nhà thơ suy tư về “Đất Nước” qua độ rộng của không gian địa lí để khẳng định đất nước của nhân dân. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta:
“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi””
Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục suy tư về Đất Nước qua bề rộng lãnh thổ:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những người dân nào đã góp nên tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đất nước trở thành sự sống máu thịt vô cùng thiêng liêng đối với mỗi người tuy chỉ có một phần nhưng đó là linh hồn là sự sống của Đất Nước. Cho nên xây dựng bảo vệ và hi sinh vì Đất Nước là vai trò trách nhiệm cao cả của chúng ta bởi Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Tác giả đã có cái nhìn thật mới mẻ về vẻ đẹp của Đất Nước, Tổ Quốc gắn với những con người bình dị vô danh.

2.2 Đất nước được thể hiện và cảm nhận trong chiều dài lịch sử (tư liệu từ ” Và ở đâu trên khắp ruộng đồng… cho người sau trồng cây hái trái)

Đoạn trích có cái nhìn rất sâu và rất xa về bốn nghìn năm Đất Nước nhưng đó không phải là thời gian lịch sử xác định mà là thứ tác giả ảo diệu mơ hồ “ngày xửa, ngày xưa” gắn với sự trường tồn của Đất Nước, sức sống mãnh liệt của nhân dân. Nhà thơ khẳng định lại các triều đại như Nguyễn Trãi đã từng viết ” Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập…” và cũng không nhắc những tên tuổi lừng danh trong sử sách như Chế Lan Viên:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng…”
mà nghiêng về bày tỏ niềm tự hào lòng biết ơn trân trọng đến lớp lớp những người anh hùng vô danh:
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Những người vô danh ấy đã làm nên giá trị vật chất và giá trị tinh thần truyền lại cho con cháu mai sau:
“Họ giữ và truyền cho ra hạt lúa ta chồng

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
Từ “họ” đứng ở đầu dòng thơ được điệp đi điệp lại liên tục có tác dụng ca ngợi vai trò to lớn của “họ” trong việc “giữ và truyền” cho con cháu muôn đời những giá trị vật chất và tinh thần. “Họ” mang một tên chung đó là “nhân dân”. Những từ “giữ”, “truyền” xuất hiện với mật độ dày đặc thể hiện sự tiến hóa của lịch sử giống như một cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức của nhân dân, nhờ có họ “giữ” và “truyền” mà con cháu được thừa hưởng giá trị vật chất và tinh thần. “Hạt lúa” biểu tượng cho giá trị vật chất, cho nền văn minh lúa nước, “ngọn lửa” không chỉ biểu tượng giá trị vật chất mà nó còn biểu tượng cho ngọn lửa của truyền thống cách mạng, ngọn lửa của văn minh, ngọn lửa của sự ấm áp, tin yêu. “Giọng nói” là tiếng nói của nòi giống, của dân tộc, của biểu tượng cho giá trị tinh thần ngàn đời. Quan trọng hơn nhân dân còn là người mở mang bờ cõi, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc, làm nên những thành quả cho con cháu mai sau. Lịch sử của đất nước được viết bằng máu của những người không tên, không tuổi để rồi:
“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Nói về lịch sử mấy nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như những nhà thơ khác, cũng không xây dựng những hình ảnh kì vĩ để tụng ca, chiêm ngưỡng mà dùng cách nói giản dị tự nhiên đậm màu sắc dân gian. Đất nước hiện lên từ những cái “ngày xửa ngày xưa….”, trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể có ông Bụt, bà Tiên, cô Tấm thảo hiền, có sự tích trầu cau, Thánh Gióng, … Ở đó đất nước gần gũi bình dị mà thiêng liêng với phong tục ăn trầu của bà, tập quán búi tóc sau đầu của mẹ, tình nghĩa của cha, sự vật hàng ngày cái keo, cái cột,…Như vậy lịch sử đất nước dựng lại trong từng câu chuyện cổ xa xưa, gắn với cuộc sống, số phận của nhân dân.

2.3 Đất nước được thể hiện ở bề sâu văn hóa dân tộc qua cái nhìn đầy tự hào của thanh niên yêu nước.
Những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ở nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian. Tác giả đã sử dụng và sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc. Nhưng đất nước có từ thời xa xưa mà không hề xa lạ, lại vô cùng gần gũi, thân thiết như câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn… Cái tài tình, tinh tế của Nguyễn Khoa Điềm là lấy ý, lấy hình ảnh của thần thoại cổ tích và câu ca xưa để tạo nên những biểu tượng phong phú, mới lạ, làm tăng thêm nhận thức tình yêu cũng như vẻ đẹp của đất nước, nhân dân trong những giá trị văn hóa, tinh thần vĩnh hằng, bất tận của nhân dân.
Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước của nhân dân là sự hội tụ và kết tinh với bao công sức và khát vọng của nhân dân. Đồng thời nhân dân là người làm ra đất nước cho nên khi viết về đất nước, nhà thơ đưa ta trở về cội nguồn của các giá trị văn hóa đân tộc, tìm thấy những nét nổi bật của tâm hồn, tính cách Việt Nam. Tiêu biểu nhất là tinh thần, là truyền thống thủy chung say đắm trong hạnh phúc tình yêu.
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Rồi biết quý trọng tình nghĩa, coi trọng đạo nghĩa con người
“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”
Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù để có được hạnh phúc bền lâu:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Đoạn trích khép lại tư tưởng đất nước nhân dân nhưng lại ngời lên trăm dáng, trăm màu của dòng sông văn hóa, đậm đà hương sắc dân gian, linh hồn Việt.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình còn bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xanh”

3. Đất nước của ca dao thần thoại
Chứng minh qua nghệ thuật của bài:
– Thơ trữ tình chính luận độc đáo
– Giọng thơ thủ thỉ tâm tình anh-em
– Chất liệu văn hóa dân tộc, văn học dân gian.
Tư tưởng đất nước trong chương thơ được thể hiện qua hình thức thơ trữ tình chính luận độc đáo. Ở đó thơ tụ do phóng túng, thoải mái, tạo nên lối tư duy hiện đại và tính triết luận của tác phẩm nhằm trả lời cho câu hỏi ” Đất nước ta có từ bao giờ?”, “Đất nước là gì?”, “Đất nước của ai?”… Kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng, giữa yếu tố chính luận và sắc màu trữ tình. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời trò chuyện của “anh” với “em” tạo nên âm vang ngân nga, sâu lắng, thiết tha và trang trọng về đất nước nhân dân. Tác giả cũng vận dụng phong phú, sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc: phong tục tập quán, huyền thoại, huyền sử, lấy ý hình ảnh của ca dao, tục ngữ, thành ngữ…tạo nên những liên tưởng mới mẻ và rất đẹp về đất nước. “Đất nước” là một tác phẩm nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm mà ở trong đó là một thế giới nghệ thuật rất riêng: Đất nước bình dị gần gũi mà cũng vô cùng sâu xa, thiêng liêng lại bay bổng, lãng mạn và lấp lánh màu sắc ca dao, cổ tích.

III. Kết bài

Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần làm phong phú hơn, sâu sắc hơn tư tưởng đất nước nhân dân của thơ ca thời chống Mĩ, đem đến cho người đọc nhận thức sâu sắc về đất nước của nhân dân. “Đất nước” – một giai điệu nhỏ bé trong bản hợp ca về đất nước những năm 1945-1975 nhưng tác phẩm ấy vẫn âm vang một nhịp điệu riêng khó nhầm lẫn nhờ tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Khoa Điềm: “Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại…”. Đất nước sẽ còn được nhắc đến như một bài ca không bao giờ quên.

Phân tích Tư tưởng đất nước của nhân dân trong “Đất Nước”

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm xuất sắc, mang vẻ đẹp độc đáo của ông, được sáng tác vào năm 1971 tại núi rừng chiến khu Trị – Thiên. Bài “Đất Nước” là chương V của trường ca này. Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo các chất liệu – thi liệu từ tục ngữ, ca dao dân ca, từ truyền thuyết cổ tích đến phong tục, ngôn ngữ… của nền văn hóa dân tộc để khơi nguồn cảm hứng về Đất Nước, một Đất Nước có nguồn gốc lâu đời, một Đất Nước của Nhân Dân vĩnh hằng muôn thuở.
 
Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II bài “Đất Nước” đã ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, tự hào khẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta. Câu thơ mở rộng đến 13, 14, 15 từ, nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm điệu và nhạc điệu gợi cảm:
 
Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hoặc cặp vợ chồng yêu nhau mà đã “góp cho”, đã “góp nên”, làm đẹp thêm, tô điểm thêm Đất Nước:
 
“Những người vợ nhớ chồng còn góp Đất Nước những núi Vọng Phu
 
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”.
 
Núi Vọng Phu Ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định,… hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp lên” những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn.
 
Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái “gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay, 99 núi con Voi Ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”. Các từ ngữ: “đi qua còn… để lại”, “góp mình dựng” đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước:
 
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
 
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.
 
Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có sông Mã “bờm ngựa phi thức trắng”. Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa:
 
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”.
 
Rồng “nằm im” từ bao đời nay mà Nam Bộ mến yêu có “dòng sông xanh thẳm” cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. Phải chăng nhà thơ trẻ qua vẻ đẹp dòng sông Chín Rồng để ca ngợi giang sự gấm vóc, con người Việt Nam rất đỗi tài hoa?
 
Quảng Nam, Quảng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,… có núi Ân sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không nói về “địa linh nhân kiệt” mà nghĩ về người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta:
 
“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên “.
 
Nghèo mà vẫn “góp cho” Đất Nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt. Nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng. Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do “những người dân nào đã góp tên” đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, săn hổ… làm nên? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã “làm nên Đất Nước muôn đời”:
 
“Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
 
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.
 
Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân dân. Các thi liệu – hình ảnh: người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò nghèo, con cóc con gà, những người dân nào… dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng, đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm,… của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”,… đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đã đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp cho, góp nên…) nhiều ý nghĩa mới mẻ, nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn.
 
Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Từ cụ thể, thơ được nâng lên tầm khái quát, tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:
 
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
 
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
 
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
 
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
 
Ruộng đồng gò bãi… là hình ảnh của quê hương đất nước. Những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi… bất cứ ở đâu trên đất nước Việt Nam thân yêu đều mang theo “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Hình tượng đất nước cũng là điệu tâm hồn, phong cách, ước mơ hoài bão của ông cha ta, tổ tiên ta bốn nghìn năm lịch sử dựng nước. “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” là một câu thơ rất hay, rất đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam. Chữ “một” được điệp lại 3 lần, chữ “ta” được láy lại 2 lần, kết hợp từ “ôi” cảm thán đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm, tự hào về cảm xúc. Vừa đĩnh đạc hào hùng, vừa thiết tha lắng đọng. Vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những dòng thơ tráng lệ.
 
Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách sâu sắc rộng lớn không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy của thời gian và lịch sử bốn nghìn năm “đằng đẵng”. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài “Đất Nước”. Câu thơ mở rộng đậm đặc chất văn xuôi. Yếu tố chính luận và chất chữ tình, chất cảm xúc hoà quyện, làm cho chất thơ dào dạt, ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùng vĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa thủy chung… được nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào. Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo.
 
Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ca ngợi tâm hồn Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên Đất Nước đã được Nhân Dân sáng tạo nên. Nhân Dân là chủ nhân của Đất Nước. Bài thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về Đất Nước và Nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương, ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng Đất Nước.
 
 

Like share và ủng hộ chúng mình nhé: