Dàn ý, bài cảm nhận vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế. Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một bài bút kí ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ Huế mơ mộng đã đi vào lòng biết bao thế hệ người đọc. Tác phẩm chính là bức tranh toàn cảnh miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương khi ở thương nguồn thì mạnh mẽ hoang dại, khi về đồng bằng thì lại thơ mộng đắm say lòng người. Trong bài viết này chúng tôi xin chia sẻ tổng hợp các bài văn phân tích, cảm nhận vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế giúp các bạn học sinh có thêm kiến thức và vốn từ khi làm bài.
1. Dàn ý phân tích vẻ đẹp dòng sông Hương
a) Mở bài
– Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường: là nhà văn của xứ Huế, ông có sức liên tưởng tưởng tượng dồi dào, lối hành văn mê đắm, ông chuyên viết về bút kí.
– Tác phẩm là tùy bút tiêu biểu cho phong cách văn chương của tác giả: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
– Hình tượng trung tâm của tác phẩm là hình tượng con sông Hương.
b) Thân bài
* Dòng sông thiên nhiên
– Ở thượng nguồn:
+ Là “bản trường ca của rừng già” “rầm rộ dưới bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”; lúc lại dịu dàng say đắm dưới dặm dài chói lọi hoa đỗ quyên …”
+ “cô gái Di – gan”: phóng khoáng, man dại, tâm hồn tự do, trong sáng, bản tính gan dạ, có sức mạnh bản năng
+ Sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”.
– Sông Hương từ thượng nguồn đến Huế:
+ Sông Hương “như một người gái đẹp nằm ngủ mơ màng…” được đánh thức bởi tiếng gọi của tình yêu, bắt đầu hành trình gian truân, “tìm kiếm có ý thức” đến với Huế, lần đầu đến với tình yêu một mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”.
Sông Hương có nhịp chảy chậm rãi, “mềm như tấm lụa” (liên hệ hình ảnh sông Đà như “áng tóc trữ tình”),
Từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ: mang dáng vẻ trầm mặc khi chảy qua những lăng tẩm, đổi dòng chuyển hướng liên tục.
Từ chân đồi Thiên Mụ đến lúc gặp Huế: “vui hẳn lên”, “kéo một nét thẳng” vì tìm đúng đường về
Giáp mặt Huế, sông Hương không gặp Huế ngay mà “uốn một cánh cung …tình yêu” như một người con gái bẽn lẹn, ngại ngùng.
– Trong lòng Huế
+ Tác giả so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới, sông Hương chỉ thuộc về một thành phố duy nhất, giống như người con gái chung thủy.
+ Sông Hương mang đến cho Huế một vẻ đẹp cổ xưa dân dã: “ánh lửa thuyền chài … xưa cũ”, trôi đi chậm như một mặt hồ.
+ Người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
– Từ biệt Huế ra biển:
+ Như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
=> Tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.
* Dòng sông lịch sử
– Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX, …
– Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”,…
– Là một người con gái anh hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng Tám,…
* Dòng sông văn hóa
– Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
– Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân
c) Kết bài
– Nêu cảm nhận về hình tượng dòng sông Hương
– Đánh giá nghệ thuật nổi bật: liên tưởng độc đáo, sử dụng từ ngữ đặc sắc, văn phong tao nhã, thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hương.
– Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế cũng như đất nước.
Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào Huế chi tiết
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác giả sáng tác có nhiều thành công ở nhiều thể loại. Tuy nhiên, thành công chủ yếu của ông là ở thể kí. Nguyễn Tuân – một bậc thầy về thể kí đã cho rằng kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của ông viết tại Huế năm 1981 là một trong những tác phẩm đặc sắc vừa thể hiện những nét đẹp độc đáo của sông Hương vừa thể hiện nét tài hoa, uyên bác của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường nhạy cảm, tinh tế, nhất mực say mê cái đẹp của quê hương, đất nước.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bài bút kí viết hết sức tự do và phóng khoáng. Xét đến cùng, sức hấp dẫn của tác phẩm này chính là cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường- một cái tôi tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, ông đã đem đến cho người đọc được chiêm ngưỡng một thực thể thẩm mĩ tuyệt vời của tạo hóa ban tặng – đó là dòng sông Hương của xứ Huế với một vẻ đẹp phong phú, lung linh, huyền ảo, nhất là đoạn chảy về đồng bằng đến ngoại vi thành phố Huế.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng đến ngoại vi thành phố Huế đã bộc lộ nét tài hoa, lịch lãm trong lối viết của tác giả. Người đọc khó có thể cưỡng lại sức hấp dẫn toát ra từ thủ pháp nhân hóa, từ cách dùng hàng loạt các động từ diễn tả cái dòng chảy thật sống động qua các địa danh khác nhau của xứ Huế.
Dễ nhận thấy sông Hương từ chân núi Kim Phụng liên tục chuyển dòng: có lúc là hướng Nam Bắc, có lúc lại là hướng Tây Bắc,… nhưng những khúc quanh, sự chuyển dòng đột ngột của dòng sông đã được tác giả thể hiện qua những cảm nhận rất độc đáo, qua một cái nhìn thật tình tứ khi Hoàng Phủ Ngọc Tường tưởng như đó là những đường cong thật mềm của người con gái. Nói cách khác, thủy trình của Hương Giang không thẳng tắp, không đơn điệu. Ta không quên tác giả luôn ví sông Hương với hình ảnh của người thiếu nữ, một thiếu nữ đang đến với xứ Huế, đến nơi hẹn gặp thành phố tương lai. Như thế, những đoạn gấp khúc uốn quanh không chỉ cho ta thấy những đường cong thật mềm của thiếu nữ mà còn thoáng chút gì như e lệ, một chút chùng chình khi đến nơi hẹn với người tình chung thủy. Đấy là nơi sông Hương sẽ gắn bó mãi với kinh thành.
Từ Bến Tuần, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thấy những con thuyền trên sông Hương chỉ bé vừa bằng con thoi, còn sông Hương lại như tấm lụa khổng lồ. Đấy là những tấm lụa rực rỡ những sắc màu và những sắc màu ấy lại biến đổi theo thời gian: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Thật ra, đó chỉ phản quang theo thời gian trong ngày nhưng cũng đủ cho ta thấy vẻ đẹp kì ảo của thiên nhiên một miền đất. Những sắc màu ấy không cùng đồng hiện, nếu thế thì không còn là rực rỡ mà chỉ là sặc sỡ. sắc màu ấy đã biến đổi theo thời gian, theo quy luật, trở thành cách nói quen thuộc của người dân xứ Huế. Như thế, cảnh sắc càng trở nên diễm lệ và mơ màng. Đấy là những sắc màu phản quang biến đổi theo thời gian của một ngày hay đấy là nỗi niềm của con người đồng hành với những sắc màu của một miền đất ? Cảnh sắc ấy càng khiến người ta bâng khuâng:
Sớm trông mặt đất thương xanh núi
Chiều vọng chân mây nhớ tím trời
(Xuân Diệu)
Nói đến Huế còn phải nói đến những lăng tẩm – dường như đây là điều không thể tách rời. Tác giả nói đến một đoạn sông Hương trôi chảy giữa quần sơn lô xô, nơi đấy chỉ có những rừng thông u tịch, như cảm nhận được niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm, bao nhiêu lăng của vua chúa khiến cho một đoạn sông Hương như chìm trong núi phủ mây phong cùng với bóng tùng:
Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên
Đoạn sông Hương này dòng chảy không cuộn xoáy, không rầm rộ mà dường như mây phong núi phủ đã khiến nó trở nên trầm mặc, nghĩa là gợi ra những cảm nhận về nghĩ suy, về những gì là thâm nghiêm. Nét trầm mặc này được tác giả ví như triết lí, như cổ thi – tác giả đã không so sánh với những gì cụ thể, dễ nhận biết mà lại so sánh với những thứ xa xôi, trừu tượng, mơ hồ để con người như càng thêm trầm tư, mặc tưởng trước vẻ đẹp đặc thù của một đoạn sông Hương.
Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế thân yêu – có lẽ đây là đoạn tác giả nói về vẻ đẹp của dòng sông đẹp nhất, duyên dáng, trữ tình nhất. Từ chùa Thiên Mụ trở đi, sông Hương lại mang một vẻ đẹp khác. Tác giả đã thấy sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc. Chi tiết này làm ta nhớ đến những câu thơ trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm nói về dòng sông ra đi giữa đôi bờ xanh bãi mía bờ dâu. Có lẽ đó cũng là nét đẹp thường thấy ở nhiều dòng sông khác. Nhưng nếu như Hoàng cầm chỉ gửi gắm nỗi niềm kín đáo thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nói rõ sông Hương vui tươi hẳn lên vì .nó đã tìm đúng đường về. Cái vui tươi của dòng sông lại cho ta liên tưởng đến cái vui tươi của con người, đến cuộc sống yên bình của người dân một miền đất với những bờ bãi xanh biếc, màu mỡ ,…
Sông Hương đã gặp cầu Tràng Tiền trên đường về. Tác giả thấy nhịp cầu với hình bán nguyệt in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Có thể nói liên tưởng, so sánh ấy thật hợp lí và bất ngờ và cũng thật nên thơ bởi so sánh ấy đã nói được hình dáng, màu sắc của cây cầu và dường như nhịp cầu có phản chiếu một ít ánh sáng. Hình bán nguyệt bừng sáng ở phía xa ấy như vành trăng non để liên tưởng có tiếp ở người đọc là ánh mắt của người thiếu nữ. Có lẽ khi đi tới những liên tưởng, những so sánh này thi Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nghĩ đến câu kiều: Mày ai trăng mới in ngần (bài kí hơn một lần cho thấy những liên tưởng về Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Niềm vui của dòng sông khi gặp cầu Tràng Tiền không ồn ào mà có gì đó sâu thẳm, lặng lẽ. Sông Hương đến gần với xứ Huế chỗ cồn Giã Viên thì tác giả thấy nó có những nét cong thật mềm mại và đã được so sánh, nhìn nhận: dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. So sánh này thật là độc đáo, tài hoa và tinh tế. Tác giả đã so sánh với những cái khá mơ hồ nhưng lại gợi được những liên tưởng: cô gái ấy thuận tình nhưng lại không nói ra vì e lệ. Điều này làm ta liên tưởng đến nét đẹp của cô gái xứ Huế tình tứ, duyên dáng mà vẫn e lệ, vẫn kín đáo – Hàn Mặc Tử cũng đã có câu thơ nói về điều này: Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? (Đây thôn Vĩ Dạ).
Sông Hương giữa lòng thành phố Huế có gì đó gợi nhắc đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét,…. nhưng những dòng sông ấy vừa giống lại vừa khác với Hương Giang. Đó đều là những dòng sông gắn liền với thủ đô, kinh đô nhưng sông Hương vẫn khác với hai con sông đó ở chỗ sông Hương không hoàn toàn gắn với những gì hiện đại mà còn gắn với những xóm thuyền, với nhưng ánh lửa thuyền chài. Sông Hương chảy giữa lòng thành phố ở đây ta như thấy có sự đan cài giữa quá khứ với hiện đại. Sự cận kề và đan xen ấy tạo nên nét đặc thù cho xứ Huế và sông Hương.Hương Giang phía hạ nguồn đã chảy chậm hơn. Đây cũng là một nét khác biệt nữa của dòng sông với sông Nê-va. Sông Nê-va chảy quá nhanh, quá xiết, còn dòng sông Hương chảy giữa lòng thành phố lại lặng lờ, êm đềm. Nó không còn vũ điệu cuồng nhiệt của cô gái Di-gan, chẳng còn nữa những gì là rầm rộ, là mãnh liệt. Điệu chảy khác thường ấy của sông Hương đã được tác giả gọi là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Nét êm đềm, lững lờ chảy của dòng sông chính là khuôn mặt kinh thành đã in dấu trong thơ của nhiều người:
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng Huế nên rất sâu
(Thu Bồn)
Sông Hương qua cảm nhận của tác giả chủ yếu được nhìn nhận theo chiều không gian, theo dòng chảy của con sông. Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu không nói đến vẻ đẹp của Hương Giang từ bình diện thời gian mà vẫn gắn với kinh thành, với đêm khuya trên dòng sông. Trong bài kí, tác giả đã nhắc đến tiếng đàn, tiếng cổ nhạc đêm khuya trên sông Hương. Dòng sông lúc ấy đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nhà văn thật có lí khi cho rằng không thể nghe tiếng nhạc Huế ban ngày, nghe ở nhà hát mà dứt khoát phải nghe lúc đêm khuya ở một khoang thuyền. Khi ấy, tiếng đàn sẽ hòa điệu với tiếng nước rơi trên mái-chèo để tạo nên một sự cộng hưởng lạ lùng. Từ đây, tác giả mới có liên tưởng đến Nguyễn Du. Thi hào có lẽ đã sống với những phiến trăng sầu, những đêm trên sông Hương với bao nỗi niềm, nghe tiếng đàn để có được câu thơ: Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới xa nửa vời mà một nghệ nhân gắn bó với cổ nhạc xứ Huế nửa thế kỉ qua đã quả quyết đó chính là Tứ đại cảnh (một bản nhạc cổ Huế, tương truyền do vua Tự Đức sáng tác). Dòng sông Hương là nơi sinh thành cổ nhạc Huế với những điệu nam ai, nam bình không thể nào quên. Đó là môi trường diễn xướng để tiếng nước rơi trên mái chèo làm tôn thêm tiếng đàn. Môi trường ấy đã nuôi dưỡng hồn thơ của một thi hào để từ đó có những câu thơ tuyệt diệu về tiếng đàn đi suốt cuộc đời nàng Kiều.
Khi chảy qua thành phố Huế, sông Hương dường như không vội vã mà muốn vòng lại lưu luyến. Hơn một lần Hoàng Phủ Ngọc Tường nói đến khúc quanh của dòng sông: có lúc là đường cong thật mềm, có lúc như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, còn ở đây tác giả lại thấy dòng sông vấn vương và có một chút gì lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Sông Hương đã là một cô gái thật đáng yêu, là Thúy Kiều trong đêm tự tình. Dòng sông ấy đã vòng lại, chảy lại để nói lời giã biệt với Kim Trọng và khẳng định một lời thề trước khi ra biển cả rộng lớn: còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ… Chia tay là một điều không thể khác, ra biển với những dòng sông là lẽ tự nhiên nhưng chỗ vòng lại khúc quanh ấy lại biểu hiện tất cả những bịn rịn, ước hẹn: Nước đi ra bể lại mưa về nguồn (Thề non nước, Tản Đà). Dòng nước có trôi đi thì rồi giọt nước lại rơi về. Biết bao nhiêu nỗi vấn vương bâng khuâng tạo ra những liên tưởng về sự hóa thân, về những gì vang vọng trong câu hò dân gian về nét đẹp trung tình của con người một miền đất.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường là bài văn xuôi đặc sắc đầy chất thơ về dòng sông Hương. Với tình yêu say đắm, thiết tha và với vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí,… nhà văn đã cống hiến cho người đọc một ấn tượng sâu đậm về vẻ đẹp của dòng sông xứ Huế mộng mơ, nhất là đoạn chảy ở đồng bằng đến ngoại vi thành phố Huế. Hương Giang vốn đã đẹp ở ngoài nhưng trong những trang viết của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khiến dòng sông đẹp hơn như một bức họa đồ, nhẹ nhàng êm ái như điệu slow tình cảm, hay dịu dàng cuốn hút như người tình trong mộng. Tất cả những điều đó làm dấy lên trong lòng người đọc nhưng khao khát được đến với sông Hương của xứ Huế thơ mộng. Dòng sông đúng là một công trình nghệ thuật mà tạo hóa đã ban tặng cho con người.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế
Ngay từ khi đọc nhan đề, ở người đọc đã vang lên câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – câu hỏi có dáng dấp ngẩng ngơ rất thi sĩ. Từ thoáng ngẩn ngơ này, bao nhiêu ấn tượng về cái đẹp của sông Hương sẽ ùa về trong tâ, trí, khơi lên mạch viết dạt dào cảm xúc về “nhan sắc” thiên phú của dòng nước êm đềm chảy qua Huế cố đô. Vang lên những lần khác trong tác phẩm, câu hỏi biến thành một nỗi suy tư thâm trầm, đánh động bao vốn liếng văn hóa tích tụ trong người viết và cũng dòi hỏi nó phải được hiện diện trên trang giấy. Vậy đó, ta đang nói đến những mạch cảm hứng lớn đã dẫn dắt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đến và đi với sông Hương, để rồi tiếp nữa, làm một cuộc viễn du vào lòng muôn dộc giả, đóng vai người truyền cảm hứng cho họ bộc lộ tình yêu xứ sở hết sức thiết tha của mình.
Sau khi làm “bản trường ca của rừng già” và “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn” ở khúc thượng nguồn, thành “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương chính thức chảy vào trong thành phố Huế.
Dưới góc nhìn địa lí, sông Hương giáp mặt với Huế ở Cồn Giã Viên, uốn mình một đường cong chảy vào thành phố Huế. Lưu tốc của sông giảm hẳn do có sự hiện diện hai hòn đảo nhỏ và những chi lưu mang nước đi khắp thành phố. Vì thế sông trôi thật chậm như một mặt hồ yên tĩnh.
Dưới góc nhìn tài hoa và mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tưởng, sông Hương hiện lên với gương mặt riêng. Sông chảy theo hướng tây nam – đông bắc, “kéo một nét thẳng thực yên tâm” “như tìm đúng đường về”, như người con gái đã tìm thấy bến đỗ của tình yêu, vui tươi và yên tâm. Dáng người con gái ấy “mềm mại như dáng lụa”, mềm như “tiếng vâng không nói ra của tình yêu” vừa duyên dáng và ý nhị. Cái nhìn ấy của Hoàng Phủ không chỉ đơn giản là cái nhìn quan sát, khám phá mà là cái nhìn mê đắm của chàng trai dành cho người con gái. Hai bên bờ sông có đủ những cảnh đẹp: xa – gần, cổ kính – bình dị, sang trọng – mộc mạc của cuộc sống cần lao: “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Tiếp theo đó là dáng nước. Trong cái nhìn của Hàn Mặc Tử, nhịp điệu của sông nước là nhịp buồn:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Trong cái nhìn Tố Hữu là nhịp của những tình nghĩa:
“Hương giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
Với Thu Bồn lại là nhịp lắng đọng:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy”
So với con sông ở Lê-nin-grát, sông Nê- va, tác giả lại càng thấy nhớ, thấy quý điệu chảy lặng lờ. Bởi điệu chảy của sông Hương là điệu tâm hồn, là nhịp sống chậm, là những giây phút vừa sống vừa cảm nhận, vừa lắng nghe. Nhìn con sông xứ người mà thêm yêu con sông xứ mình. Tác giả đã thực sự trở thành một tri kỉ của sông Hương, hiểu ngọn ngành khí chất của nó.Theo tác giả, sông Hương đã thật “tâm lí” khi “trôi chậm, thực chậm” qua kinh thành Huế, như để an ủi người ta đừng quá sầu muộn về sự biến đổi vô thường của cuộc đời, về sự vèo qua chóng mặt của thời gian. Dòng nước sông đã lặng tờ một cách cố tình để muốn những ánh hoa đăng trong đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về qua Huế “bồng ngập ngừng như muốn đi muốn ở” . Bằng cách trôi rất riêng đó của mình, sông Hương như muốn nhắc người ta rằng cuộc đời này có rất nhiều cái đáng vương vấn. Rồi nữa, nếu không nhờ sự phát hiện đầy tính chất đồng điệu của tác giả đối với sông Hương, mấy ai biết rằng việc sông Hương đột ngột đổi dòng ngay khi vừa chia tay Huế là thuận theo một lí do rất tình cảm, rất “người”: chẳng qua nó muốn gặp lại Huế “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Ở đây có đến ba tháu độ chí tình cùng “hợp lưu” với nhau: chí tình của sông Hương đối với Huế, chí tình của con người Huế trong tình yêu và chí tình của chính tác giả dành cho sông Hương, dành cho cả mảnh đất xưa gọi là Châu hóa. Suy cho cùng nếu không có cái chí tình của tác giả thì cái chí tình của sông Hương không thể trở thành một “khách thể tinh thần” gay ấn tượng sâu đậm đến vậy!
Nếu biết cất tiếng người, hẳn sông Hương sẽ nói rằng nó đã thực sự yên tâm khi chọn trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường để hóa thân. Có lẽ chính nhà văn cũng nhận thấy, cũng hiểu niềm tin cậy đó, nên từng câu văn của ông bay bổng, diễm ảo lạ thường. Nhiều lúc độc giả có cảm tưởng ngôn từ trong bài bút kí không phải là của tác giả dùng để miêu tả sông Hương mà chính là ngon từ của sông Hương đang hát lên bài ca cho mình. Ngôn từ ấy trôi chảy hết sức tự nhiên, nếu có “luyến láy” thì cũng “luyến láy” một cách tự nhiên bởi chất hào hoa, đa tình vốn đã là cái gì thuộc về căn cốt của người viết rồi. Thiên bút kí đưa đến rất nhiều thông tin mà đọc lên vẫn thấy thanh thoát là nhờ thế. Rất nhiều trải nghiệm của một đời viết luôn gắn bó với con người, dân tộc và đất nước đã được đưa vào đây. Yêu sông Hương nhưng tình yêu ấy không ngăn cản ta yêu những dòng sông khác có trên trái đất. Và ngược lại, niềm thích thú được quan sát dáng nét độc đáo của những dòng sông thuộc các vùng khác nhau lại làm tươi mười trong ta nỗi rung động bổi hồi rất đặc biệt trước dòng sông quê hương đã nuôi lớn cuộc đời mình.
==> Tham khảo thêm nhiều bài viết hay tại icongchuc.com
Bài viết khác cùng mục: