I. Một số quy định chung về xử phạt VPHC trong lĩnh vực KBNN:
1. Một số khái niệm:
– Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
– Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
– Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
– Biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính là biện pháp mang tính giáo dục được áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt vi phạm hành chính hoặc biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính, bao gồm biện pháp nhắc nhở và biện pháp quản lý tại gia đình.
– Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định này mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử lý.
– Vi phạm hành chính nhiều lần là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính mà trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa bị xử lý và chưa hết thời hiệu xử lý.
– Vi phạm hành chính có tổ chức là trường hợp cá nhân, tổ chức câu kết với cá nhân, tổ chức khác để cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính.
2. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính:
– Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
– Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;
– Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
– Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định;
– Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần;
– Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó;
– Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
– Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính;
– Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
3. Nguyên tắc xác định hình thức xử phạt và mức phạt tiền:
– Đối với những hành vi vi phạm vừa có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo, vừa có thể áp dụng hình thức phạt tiền, thì hình thức xử phạt cảnh cáo được áp dụng đối với vi phạm lần đầu và không có tình tiết tăng nặng.
Trường hợp không thuộc đối tượng được áp dụng hình thức phạt cảnh cáo nêu trên, thì áp dụng hình thức phạt tiền.
Ví dụ: Liên quan đến hành vi vi phạm hành vi gửi hồ sơ đề nghị cam kết chi đến Kho bạc chậm quá thời hạn quy định tại Thông tư số 113/2008/TT-BTC (theo quy định thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền):
+ Trường hợp vi phạm lần đầu và không có tình tiết tăng nặng (cụ thể chỉ có một hợp đồng thuộc đối tượng phải làm cam kết chi nhưng hồ sơ đề nghị CKC gửi Kho bạc chậm quá thời gia quy đinh. Khi đó hành vi này chỉ bị phạt cảnh cáo.
+ Trường hợp vi phạm lần đầu, nhưng có tình tiết tăng nặng (cụ thể chỉ từ hai hợp đồng thuộc đối tượng phải làm cam kết chi nhưng hồ sơ đề nghị CKC đều gửi Kho bạc chậm quá thời gia quy đinh. Khi đó hành vi này bị phạt tiền (mức phạt tiền là 750.000đồng)).
– Đối với những hành vi chỉ quy định hình thức phạt tiền hoặc không đủ điều kiện áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo, mức phạt tiền cụ thể được xác định như sau:
+ Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó. Mức trung bình của khung tiền phạt được xác định bằng trung bình giữa mức tối đa của khung hình phạt và mức tối thiểu của khung hình phạt.
+ Cứ một tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng, thì mức tiền phạt được giảm hoặc tăng 20% so với mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó, nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu và không được cao hơn mức tối đa của khung hình phạt đó.
+ Khi xác định mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng, thì xem xét giảm trừ tình tiết tăng nặng theo nguyên tắc có một tình tiết giảm nhẹ được giảm trừ một tình tiết tăng nặng. Sau khi giảm trừ, nếu còn tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng thì áp dụng theo quy định tại điểm b Khoản này.
– Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước không được sử dụng tiền ngân sách nhà nước hoặc tiền có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước để nộp phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra. Sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác định trách nhiệm pháp lý, bao gồm cả việc nộp lại khoản tiền phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra tương ứng với mức độ vi phạm của cá nhân đó.
4. Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính:
– Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm (đối với lĩnh vực KBNN).
– Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định như sau:
+ Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm.
+ Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm;
– Trong thời hạn được xử phạt vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
5. Thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính:
– Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
– Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nếu trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
6. Cách tính thời gian, thời hạn, thời hiệu trong xử lý vi phạm hành chính:
a) Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. Thời hạn có thể được xác định bằng phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra. Thời hạn được tính theo dương lịch.
– Thời hạn:
+ Một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày;
+ Nửa năm là sáu tháng;
+ Một tháng là ba mươi ngày;
+ Nửa tháng là mười lăm ngày;
+ Một tuần là bảy ngày;
+ Một ngày là hai mươi tư giờ;
-Thời điểm:
+ Đầu tháng là ngày đầu tiên của tháng;
+ Giữa tháng là ngày thứ mười lăm của tháng;
+ Cuối tháng là ngày cuối cùng của tháng.
+ Đầu năm là ngày đầu tiên của tháng một;
+ Giữa năm là ngày cuối cùng của tháng sáu;
+ Cuối năm là ngày cuối cùng của tháng mười hai.
b) Thời điểm bắt đầu thời hạn:
– Khi thời hạn được xác định bằng phút, giờ thì thời hạn được bắt đầu từ thời điểm đã xác định.
– Khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo của ngày được xác định.
– Khi thời hạn bắt đầu bằng một sự kiện thì ngày xảy ra sự kiện không được tính mà tính từ ngày tiếp theo của ngày xảy ra sự kiện đó.
c) Kết thúc thời hạn:
– Khi thời hạn tính bằng ngày thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn.
– Khi thời hạn tính bằng tuần thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tuần cuối cùng của thời hạn.
– Khi thời hạn tính bằng tháng thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tháng cuối cùng của thời hạn; nếu tháng kết thúc thời hạn không có ngày tương ứng thì thời hạn kết thúc vào ngày cuối cùng của tháng đó.
– Khi thời hạn tính bằng năm thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày, tháng tương ứng của năm cuối cùng của thời hạn.
– Khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.
– Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó.
d) Thời gian ban đêm được tính từ 22 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ ngày hôm sau.
7. Xác định tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng:
a) Tình tiết giảm nhẹ:
– Người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;
– Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính;
– Vi phạm hành chính trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra; vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Vi phạm hành chính do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần;
– Người vi phạm hành chính là phụ nữ mang thai, người già yếu, người có bệnh hoặc khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Vi phạm hành chính vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra;
– Vi phạm hành chính do trình độ lạc hậu;
– Những tình tiết giảm nhẹ khác do Chính phủ quy định.
b) Tình tiết tăng nặng:
– Vi phạm hành chính có tổ chức;
– Vi phạm hành chính nhiều lần; tái phạm;
– Xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành niên vi phạm; ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành vi vi phạm hành chính;
– Sử dụng người biết rõ là đang bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi để vi phạm hành chính;
– Lăng mạ, phỉ báng người đang thi hành công vụ; vi phạm hành chính có tính chất côn đồ;
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm hành chính;
– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm hành chính;
– Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính;
– Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó;
– Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính;
– Vi phạm hành chính có quy mô lớn, số lượng hoặc trị giá hàng hóa lớn;
– Vi phạm hành chính đối với nhiều người, trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai.
* Ghi chú: Những tình tiết tại điểm b nêu trên đã được quy định là hành vi vi phạm hành chính thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
8. Quy định về lập biên bản và ra Quyết định:
a. Thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực Kho bạc Nhà nước
– Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Kho bạc Nhà nước quy định (gồm: Thanh tra viên tài chính, công chức Kho bạc Nhà nước được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đang thi hành công vụ; Chánh thanh tra Sở Tài chính; Chánh thanh tra Bộ Tài chính có quyền; Tổng Giám đốc Kho bạc Nhà nước; Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).
– Công chức được giao nhiệm vụ kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước.
b. Người có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực KBNN gồm: Thanh tra viên tài chính, công chức Kho bạc Nhà nước được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đang thi hành công vụ; Chánh thanh tra Sở Tài chính; Chánh thanh tra Bộ Tài chính có quyền; Tổng Giám đốc Kho bạc Nhà nước; Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
c. Một số nội dung khác có liên quan:
– Một hành vi VPHC trong lĩnh vực kiểm soát chi NSNN chỉ bị lập Biên bản và ra quyết định xử phạt một lần.
– Trường hợp hành vi vi phạm đã bị lập Biên bản, nhưng chưa ra quyết định xử phạt, thì trước khi ra quyết định xử phạt đối với hành vi đó, người có thẩm quyền xử phạt có thể áp dụng thêm tình tiết tăng nặng.
– Trường hợp hành vi vi phạm đã bị ra quyết định xử phạt, nhưng hành vi vi phạm đó vẫn tiếp diễn, thì hành vi vi phạm này được coi là hành vi vi phạm mới.
– Trường hợp tổ chức thực hiện nhiều hành vi VPHC trong cùng một vụ vi phạm, thì Biên bản VPHC phải ghi rõ từng hành vi vi phạm.
– Trong một vụ việc VPHC có nhiều hành vi vi phạm và các hành vi này thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều cấp khác nhau, thì phải chuyển hồ sơ xử phạt VPHC lên cấp cao nhất có thẩm quyền xử phạt để ra Quyết định xử phạt VPHC.
– Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Kho bạc Nhà nước không được sử dụng tiền ngân sách nhà nước hoặc tiền có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước để nộp phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra.
– Sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác định trách nhiệm pháp lý, bao gồm cả việc nộp lại khoản tiền phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra tương ứng với mức độ vi phạm của cá nhân đó.
– Việc xử phạt vi phạm hành chính phải được lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính, bao gồm: Biên bản vi phạm hành chính; quyết định xử phạt; các tài liệu, giấy tờ có liên quan, được đánh bút lục và được lưu giữ theo quy định.
Một số tài liệu ôn thi kho bạc nhà nước 2017 theo luật mới
Một số tài liệu ôn thi kho bạc nhà nước 2017 theo luật mới: TỔNG HỢP MỘT SỐ NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC KBNN- bài do anh Nguyễn Bá Toàn chia sẻ.
Bài viết khác cùng mục: