Người thả hoài niệm vào dòng sông – Nhận định về Hoàng Phủ Ngọc Tường

Người thả hoài niệm vào dòng sông – Nhận định về Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu Nguyễn Tuân được mệnh danh là bậc thầy tùy bút với Người lái đò sông Đà thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nổi tiếng với Ai đã đặt tên cho dòng sông và nhiều bút ký khác như Rượu hồng đào chưa uống đã say, Miền cỏ thơm hay Rất nhiều ánh lửa.

Đôi nét về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường

Sinh năm 1937 và lớn lên tại Huế nhưng quê gốc của ông lại ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sau khi tốt nghiệp ban Việt Hán thuộc trường Sư phạm Sài Gòn, nhà văn tiếp tục theo đuổi triết học và nhận được bằng cử nhân tại trường Đại học Văn khoa Huế. 
 
Trong những năm đầu của thập niên sáu mươi, Hoàng Phủ Ngọc Tường giảng dạy tại trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học Huế. Sau đó, ông chia xa gia đình để lên chiến khu, tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thông qua hoạt động văn học nghệ thuật.
 
Cùng với nhiệt huyết và tài năng của mình, ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam và từng nắm giữ nhiều chức vụ như tổng thư ký, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên hay tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
 
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút đa tài với các thiên bút ký vừa trữ tình, thâm trầm vừa độc đáo, tài hoa. Không những thế, mỗi áng thơ sâu lắng, lãng mạn mang tên ông còn để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả.
 
Năm 2007, tác giả được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho những đóng góp lớn của mình vào kho tàng văn học Việt. Nổi bật trong số đó có tác phẩm Rất nhiều ánh lửa với giải thưởng Văn học Hội nhà văn Việt Nam hay Ai đã đặt tên cho dòng sông được tinh tuyển là một trong những bút ký hay nhất.
 
Ngoài ra, nhà văn còn nhận được giải thưởng Văn học Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô Huế và giải thưởng văn học nghệ thuật Chế Lan Viên tỉnh Quảng Trị lần thứ nhất.

Nhà văn đi cùng những dòng sông kỷ niệm

Tuổi thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn gắn liền với thành phố Huế mộng mơ và dòng Hương Giang lung linh, biến ảo. Chính nó đã nuôi dưỡng mạch máu văn chương nơi tâm hồn nhà văn, khơi nguồn cảm hứng bất tận giúp ông viết nên những trang tùy bút đầu tiên.
 
Ký ức về sông Hương luôn đẹp đẽ và vẹn nguyên trong trái tim ông mỗi khi nhớ về.
 
“Những kỷ niệm thời ấu thơ như những đêm nghe ca Huế dù đã cách nay hơn nửa thế kỷ nhưng tôi vẫn không quên. Ngày đó những đêm ca Huế không sân khấu đèn màu, không micro, người nghe ngồi bệt dưới nền đất để thưởng thức âm nhạc…Những kỷ niệm dung dị đó đã ám ảnh suốt những năm tháng tôi xa sông Hương sau này, để bài ký đầu tiên trong cuộc đời sáng tác của tôi là con sông quê hương.”
 
“Như một người đã chiêm nghiệm trong im lặng và trong sương khói chỉ để giữ lại những nét đẹp sâu thẳm của thiên nhiên, từ dưới đáy kinh nghiệm của một đời cầm bút, tôi đã không ngần ngại gửi tâm hồn mình vào tác phẩm, vẽ lại đời mình bằng màu nước của dòng sông, nó xanh biếc và yên tĩnh như một lẽ vĩnh hằng trong cảnh vật cố đô.”
– Hoàng Phủ Ngọc Tường
 
“Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hoá và lịch sử của các điều kiện đời sống… Văn anh giàu những tư liệu lấy từ sử sách tri thức khoa học và huyền thoại kí ức cá nhân lóe lên những ánh sáng bất ngờ… Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá bình diện văn hoá với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn.”
 
– Trần Đình Sử
 
“Tôi nhớ những con sóng vỗ bờ, vỗ mạn thuyền những đêm nằm thao thức. Đã xa rồi, đã lâu rồi không nghe lại tiếng sóng thân quen ấy, nhưng dường như những tiếng sóng ấy đã tạo cho tôi ý chí vươn lên trong cuộc sống.”
 
– Hoàng Phủ Ngọc Tường
 
Niềm thương nhớ và hoài niệm về con sông gắn bó máu thịt với mình đã tạo nên một Hoàng Phủ Ngọc Tường miệt mài, không ngơi nghỉ trên dòng chảy nghệ thuật để đóng góp cho đời những áng thơ văn rung động, thiết tha.

Nhận định về Hoàng Phủ Ngọc Tường

Nhận định 1: Qua việc phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông, chứng minh nhận định: “Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”.

     Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có sự gắn bó sâu sắc với Huế từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời của mình, đó là nền tảng cơ sở để hình thành nên tình yêu, là cơ sở để tác giả có những nghiên cứu thật tường tận về văn hóa, lịch sử và địa lý của xứ Huế. Từ đó viết nên tác phẩm ký Ai đã đặt tên cho dòng sông thật xuất sắc và thấm nhuần dáng vẻ của Huế, của con người Huế, rất đỗi tình cảm và dịu dàng, mang đậm phong cách nghệ thuật mê đắm và tài hoa của tác giả. Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một nhận định rất hay về phong cách viết bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường rằng: “Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”, ta có thể nhận thấy rõ điều đó thông qua một đoạn trích của tác phẩm, thể hiện trên vẻ đẹp của con sông Hương êm đềm, lững lờ trôi ôm ấp lấy Huế.
 
     Bút ký là thể loại văn học đặc trưng có pha trộn giữa tùy bút và ký sự, tùy bút thì thiên về cảm xúc của người viết còn ngược lại ký sự thì hoàn toàn thuần túy kể lại những sự việc mà tác giả nhìn thấy theo một trình tự không gian, thời gian nhất định . Bút ký vốn là sở trường của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thế nên trong tác phẩm Ai đã đặt trên cho dòng sông, từng trang bút ký đều thật xuất sắc khiến người đọc vừa cảm nhận được mạch cảm xúc của tác giả nhờ sự liên tưởng dồi dào, mê đắm, đồng thời cũng hiểu rõ hơn về thành phố Huế mộng mơ.
 
     Nói rằng ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhiều ánh lửa bởi lẽ, đọc ký của ông độc giả bỗng cảm thấy ấm áp, thấy thật thêm yêu xứ Huế, thêm yêu dòng sông Hương, dường như tác phẩm đã thổi vào tâm hồn độc giả một hơi ấm lạ kỳ từ ngòi bút mê đắm và tài hoa ấy.
 
     Ánh lửa ở đây có thể nói chính là tình yêu là niềm đam mê, nhiệt huyết bất diệt của nhà văn dành cho sự nghiệp cầm bút, sự nghiệp nghiên cứu những đặc điểm văn hóa, địa lý, lịch sử của thành phố Huế. Đồng thời ánh lửa ấy cũng là tấm lòng tự hào, ngợi ca từ một người con xứ Huế dành cho quê hương, dành cho dòng Hương giang xinh đẹp, mộng mơ, đó là tấm lòng ấm áp, chất chứa nhiều yêu thương, nhiều xúc cảm. Nguyễn Tuân vốn đã là một thiên tài trong làng tùy bút mà cũng phải khen ngợi, nhận xét tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, điều ấy càng chứng tỏ được tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn gốc Huế này.
 
     Vẻ đẹp của sông Hương – ánh lửa chính của cả bài ký thể hiện qua nhiều góc độ. Đầu tiên là ở góc độ địa lý, vẻ đẹp của sông Hương thể hiện qua ba đoạn chảy, cảnh thiên nhiên rất đa dạng và mang một vẻ quyến rũ đến lạ kỳ. Sông Hương trong không gian giữa núi rừng Trường Sơn, được Hoàng Phủ Ngọc Tường ví như là “bản trường ca của rừng già”. Dòng sông vừa mang chất hào hùng, tráng lệ, “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc,…”, lại cũng rất đỗi trữ tình, thơ mộng, với “vẻ dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Dòng sông ở đoạn chảy này cũng giống như một người, luôn tồn tại những nét tính cách đối lập nhau nhưng lại dung hòa bổ khuyết cho nhau, tạo nên một vẻ đẹp cá tính riêng biệt, nhiều màu sắc cho dòng Hương giang.
 
     Để tô điểm thêm cho tính cách của dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại tiếp tục nhân hóa sông Hương, ví nó như hình tượng của một cô gái Di-gan với những nét tính cách “phóng khoáng và hoang dại”, với điệu nhảy xoay tròn, lắt léo, rất quyến rũ và nồng nàn say mê. Như vậy dòng sông bỗng trở nên thật sinh động, thật cá tính, mang một “tâm hồn tự do và trong sáng”, cảm giác như một con người sôi nổi, yêu sống, yêu khám phá đến mãnh liệt. Mà thứ đã hun đúc gây dựng nên những nét đẹp trong tính cách của dòng sông ấy là chính là mảnh rừng già đang ôm ấp ở hai bên dòng sông. Nhưng dẫu có sôi nổi, nhiệt huyết đến thế nào thì sông Hương vẫn muốn thu liễm cái tính nết ấy lại, giấu gọn trong rừng già, “đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa vào lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng”. Chỉ có những con người thực sự đam mê, thực sự nhiệt huyết có ham muốn tìm tòi như Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có thể khám phá ra được những điều mà bấy lâu nay sông Hương vẫn hòng giấu kín, quả đó là một công trình hao tổn nhiều tâm huyết, cần một tâm hồn tinh tế và nhạy bén và sự kiên nhẫn vượt khó của người làm nghệ thuật.
 
     Khi ra khỏi rừng, sông Hương đã lập tức chuyển mình không còn mang dáng vẻ của một người con gái Di-gan hoang dại, quyến rũ nữa mà lại trở nên thật hiền hòa, ấm áp tựa như “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”. Người mẹ ấy đã nuôi nấng, bồi dưỡng đứa con thân yêu tên cố đô Huế bằng dòng sữa phù sa thật ngọt ngào, cũng dạy cho con mình những nét văn hóa lâu đời bằng sự “dịu dàng và trí tuệ”. Ở đấy ta thấy một sự hy sinh âm thầm lặng lẽ mà người mẹ đã hy sinh cho con cái của mình, niềm hy vọng to lớn, đầy yêu thương dành cho đứa con bé nhỏ, mộng mơ. Tác giả đã thật tài tình khi biến sông Hương thành một sinh thể có cảm xúc, có lòng yêu thương, biết hy sinh, đặc biệt là mối quan hệ mẫu tử giữa sông Hương và thành phố Huế lại càng khiến người ta ấn tượng không thôi.
 
     Vượt ra khỏi lòng Trường Sơn, sự lột xác của con sông khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng đến câu chuyện cổ tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng”, thì ở ở đây nhà văn cũng có sự kiên tưởng rất độc đáo, ấy là con sông Hương được người tình trong mộng suốt từ mấy thế kỷ đánh thức giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Sở dĩ có sự ví von đầy cổ tích và thơ mộng như vậy là do dòng sông Hương qua khúc này thật hiền hòa êm dịu, nhìn từ trên cao xuống chẳng khác nào một tấm lụa mượt mà uốn lượn quanh thành phố Huế. Cái sự mượt mà ấy dễ làm người ta nghĩ đến hình ảnh của một người con gái còn son trẻ, vẫn đang trong hành trình tìm kiếm định mệnh đời mình, vừa mang nỗi niềm e ấp dịu dàng, nhưng cũng không kém phần mãnh liệt, bạo gan. Cái cách chảy của dòng sông khúc này giống như một sự rượt đuổi tình tứ của những con người yêu nhau, hết chuyển dòng liên tục lại “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”, tựa như bóng dáng một người con gái đẹp đang phô ra những vẻ thanh xuân mượt mà, khiến lòng người phải xôn xao, thổn thức.
 
     Không chỉ mang những vẻ đẹp quyến rũ mềm mại mà ở đoạn này sông Hương còn mang nhiều dáng vẻ phong phú và đa dạng, “Có khi sắc nước trở nên xanh thẳm”, những lúc quanh co qua những ngọn đồi hai bên bờ, thì màu trời lẫn màu xanh của đồi soi bóng trên dòng Hương giang tạo nên những màu sắc thật đẹp, thay đổi theo thời gian trong ngày “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Khi sông Hương lững lờ chảy ngang qua lăng tẩm của những ông hoàng bà chúa khi xưa, nó lại mang một vẻ đẹp trầm mặc, cổ thi tựa như một bức tranh thủy mặc, dường như con sông đang trầm ngâm nghĩ suy điều gì đó, hẳn là tấm lòng thành kính, là những hoài niệm về kinh thành Huế những ngày còn vẻ vang,…
 
     Tiếng chuông chùa Thiên Mụ đã đánh thức con sông ra khỏi dòng niệm tưởng của nó, gọi nó về với sự hồn nhiên vui tươi với “những bãi biền xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, tựa như đứa con thấy đường về nhà, tựa như cô gái trẻ thấy người yêu, một cảm giác thật yên tâm, yên bình biết bao. Vẫn bằng sức liên tưởng độc đáo Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mường tượng ra hình ảnh “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” rất thơ mộng, trữ tình. Dòng sông lúc này đã qua khỏi cái thời kỳ rượt đuổi tình yêu, trở nên thật dịu dàng và e ấp, tựa như cô gái Huế trong vòng tay của người thương, “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”, làm con sông mềm mại hẳn đi, như một lời hồi đáp rất uyển chuyển, “một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”.
 
     Khi đã tiến hẳn vào đến thành phố Huế thì sông Hương lại được ví như một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, sở dĩ có sự so sánh như vậy là bởi nhà văn đã tinh tế nhận ra dòng chảy con sông khi vào Huế đã chậm lại rất nhiều tựa như “mặt hồ yên tĩnh”, bởi “những chi lưu ấy, những hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước”. Câu văn êm đềm, tựa như tiếng nhạc chậm rãi, du dương khiến con người ta chìm vào một khoảng không gian thi vị, trữ tình. Đặc biệt cái sự chậm rãi, êm đềm của dòng sông Hương càng trở nên rõ nét khi nhà văn so sánh với dòng “sông Nê-va cuốn trôi những phiến băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”. Nhà văn thật vui thú khi nhớ về những mơ ước thuở nhỏ, muốn hóa thành những chú chim cánh cụt để thỏa sức vui đùa, thế nhưng tàu băng đi nhanh quá, những chú chim ấy không kịp vẫy tay chào những con chim đang ngẩn ngơ ở lại. Có thế tác giả mới lại nhớ về dòng Hương giang thân yêu, dịu hiền, mới lại càng thêm yêu quý trân trọng cái điệu chảy chậm rãi, nhẹ nhàng như một người con gái còn lưu luyến người yêu, nửa muốn đi, nửa muốn ở lại nằm lâu hơn trong lòng chàng trai xứ Huế mộng mơ.
 
     Khi rời khỏi thành phố Huế, sông Hương vẫn còn chưa muốn rời hẳn, vẫn lưu luyến lắm, tựa như một người tình chung thủy chẳng muốn chia xa. Thế nên nó mới “đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao vinh xưa cổ”, nhà văn đã nhân cách hóa nó lên, gọi đấy là nỗi vương vấn, “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
 
     Vẻ đẹp lịch sử của Huế là điều không có gì phải bàn cãi, suốt mấy trăm năm lịch sử cố đô, chứng kiến sự thăng trầm hưng thịnh của triều Nguyễn, triều đại cuối cùng của lịch sử phong kiến Việt Nam, “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”. Bao nhiêu sự kiện, bao nhiêu biến cố, bao nhiêu đổi thay sông Hương đều âm thầm ghi nhớ, âm thầm cất giấu vào tận đáy lòng, tựa một nhà sử gia kín miệng. Thế nhưng dẫu có trải qua mấy ngàn năm, lịch sử gắn bó với Huế, với độ tuổi tưởng như già nua, nhưng tâm hồn của dòng Hương giang chưa bao giờ úa tàn. Nó vẫn luôn vậy, như có thuốc trường sinh bất lão, vẫn mang một tâm hồn cá tính, một dáng vẻ yêu kiều của cô gái đang tuổi đôi mươi, chưa khi nào hết khao khát và tìm kiếm tình yêu đích thực.
 
     Như vậy ánh lửa trong bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự xuất phát tình lòng yêu, niềm ngưỡng mộ, ngợi ca với dòng Hương giang, với mảnh đất mà ông gắn bó suốt bao năm trời. Từng dòng, từng chữ trong tác phẩm ta luôn nhận thấy được sự tỉ mỉ, chăm chút, đọc đến đâu người ta cũng nhận rõ được mạch cảm xúc của nhà văn, rất tâm huyết, yêu thương và trân trọng. Bởi phải có trân trọng, quý báu lắm, ông mới vất vả nghiên cứu tìm tòi con sông Hương từ ở khúc thượng nguồn, từ ở trong rừng già, nơi mà vốn dĩ dòng sông muốn giấu đi. Rồi ông không chỉ tìm hiểu về địa lý mà còn đi vào cả lịch sử, cả văn hóa Huế, con người Huế. Tổng hòa tất cả những điều ấy đã tạo nên một tác phẩm bút ký thực sự xuất sắc, chứa nhiều “ánh lửa” như Nguyễn Tuân đã nhận định.

Nhận định 2: “Xin được nói về Hoàng Phủ Ngọc Tường như một thi sĩ của thiên nhiên”

1.     Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.
 
     Tài hoa ư? Thì chính nhà văn thi sĩ đã tự ý thức để vận vào mình nỗi cô đơn dài dặc của cả một đời phù du “tôi sẽ tìm em giữa mịt mờ vô tận, dù một ngày còn đập cánh tài hoa”. Độc đáo ư? Thì những vần thơ, những trang ký, ngay cả những lúc “nhàn đàm”, nghĩa là những lúc mình là mình nhất, không còn phụ thuộc vào những khuôn mẫu nào, những lúc “kiến thị cuộc đời như một trò chơi và tự xem mình cũng là một trong số những người ham chơi” (Người ham chơi) Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nói lên điều đó. Đa dạng ư? Lẽ nào lại quy vào một từ đơn giản thế, dẫu thế giới nghệ thuật của anh tự nó đã là một minh chứng xác thực cho điều này. Nhân hậu ư? Thì hơn ai hết Hoàng Phủ Ngọc Tường là người đồng cảm với lời hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn – một mảnh hồn đồng dạng với anh: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì, em biết không? – Để gió cuốn đi”. Cái tâm ấy lấp lánh trên từng trang viết của một con người suốt một đời rong ruổi trong những năm tháng chiến tranh, trong những ngày tháng hòa bình. Dường như khó “sắp xếp” một chỗ cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, dù chỉ bằng ngôn từ lý luận. Cảm nhận văn thơ anh Tường là cảm nhận tự trái tim, với cả vốn liếng văn hóa có sẵn ở mỗi người.
 
     Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc một cái nhìn toàn diện về nghiệp văn và cả nghiệp đời của một tác giả. Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc loại tác giả mà những trang viết cũng chính là những trang đời chắt lọc. Cũng hiếm có một tác giả nào thể hiện hết mình một cái tôi vừa đa dạng vừa thống nhất trong những thể loại mà mình sáng tác như Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu đọc ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, chúng ta đối diện với một cái tôi trầm tư về lẽ đời, lẽ người thì dường như trong thơ anh có một con người khác – một cái tôi trầm lặng trong nỗi buồn đơn độc. Và nếu trong thơ, cái tôi luôn tự mình đối diện với bóng mình, một cái tôi ngồi tỉ mẩn lượm nhặt, ghép lắp những – mảnh – mình – rơi – vãi (dáng ai như tôi đi qua cánh đồng, thu nhặt lại mình trên ngọn gió, giống như con chim sẻ nọ, thu về từng cọng vàng khô) thì đọc ký và “nhàn đàm” của anh, người đọc lúc nào cũng tưởng tượng rằng, có một người nghệ sĩ, một kẻ lãng du, rong ruổi hoài giữa khói và mây, “giữa không gian mù sương giăng đầy tơ trời của mùa thu”; giữa tiếng ve ran giấu trong những hàng phượng đỏ mùa hè; hay trong cái tím ngát của buổi chiều, hoặc giữa đêm khuya, khi “những cây ngọc lan nhả vào không trung một mùi hương sâu thẳm và bí ẩn”. Dẫu viết về đời hay viết cho mình, dẫu có lúc lặng buồn có lúc bông đùa, riết róng hoặc có khi lên giọng sử thi, lúc nào Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện mình như một “thi sĩ của thiên nhiên”.
 
Nhận định về Hoàng Phủ Ngọc Tường ngắn gọn, hay nhất (ảnh 2)
     Lần dở từng trang viết của anh, theo sau những bước lãng du, những phút “nhàn đàm”, hay đồng điệu với những vần thơ mang tính chất tự bạch của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nét đọng lại ở người đọc vẫn là hình ảnh một con người hòa nhập với thiên nhiên. Ngay ở nhan đề những tập sách của anh cũng đã thể hiện được ấn tượng này. Từ Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Bản di chúc cỏ lau, đến Hoa trái quanh tôi, Thành phố và chim, Ngọn núi ảo ảnh, Người hái phù dung v.v… những tín hiệu thẩm mỹ ấy đã ngầm bộc lộ con người và nét đặc sắc của văn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phải chăng một con người biết say đắm một chòm mây, một dáng núi, một bóng trăng là con người biết sống và sống đẹp. Là thi sĩ của thiên nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhạy cảm với cỏ, hoa, ngàn thông, chim sẻ. Trong thơ anh xuất hiện nhiều hình ảnh hoa dại, cỏ gai, chim trời… như là biểu tượng của thiên nhiên trong trẻo, thuần khiết. Là thi sĩ của thiên nhiên, những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang đến cho người đọc những miền không gian xanh thẳm, ẩn chìm những vết trầm tích văn hóa từ thiên nhiên.
 
2.      Hoàng Phủ Ngọc Tường viết nhiều thể loại nhưng ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến những trang ký viết về thiên nhiên Huế của nhà văn. Với thể ký anh đã khẳng định rõ phong cách riêng và góp phần “bản sắc hoá” văn học một vùng đất. Chính những trang ký này đã thực sự làm nên một Hoàng Phủ Ngọc Tường của Huế, để tác phẩm của anh không biết tự lúc nào đã trở thành một phần máu thịt của văn hóa và văn học Huế. Đọc những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận về thể ký có sự đổi thay thú vị. Thể loại chuyên ghi chép các sự kiện sôi bỏng, có thực này qua ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thấm đẫm chất trầm tư, trữ tình. Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoa trái quanh tôi… chính là sản phẩm của một phong cách ký độc đáo đến duy nhất, với những trang viết vừa trí tuệ, vừa nặng trĩu trầm tư. Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu lượng thông tin. Tác giả tỏ ra am hiểu đến lọc lõi những gì mình viết.
 
     Những trang kí viết về Huế là những trang thơ văn xuôi, góp phần khẳng định sự thành công của anh về thể ký, đồng thời bộc lộ rõ một phong cách riêng. Đó là “chất Huế” bàng bạc khắp những trang viết của anh. Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút ký gắn bó với cội nguồn, truyền thống văn hóa Huế. Trong bảng màu đa dạng của loại ký thiên về văn hóa, ký Hoàng Phủ Ngọc Tường tập trung về thiên nhiên và văn hóa vườn.
 
     Vườn là một không gian văn hóa đặc trưng của Huế. Hệ thống vườn nhà, vườn lăng, vườn chùa, vườn trường làm tôn tạo sắc xanh và trữ tình cho Huế. Nhạy bén với ưu đãi của thiên nhiên dành cho vùng đất kinh kỳ cũ, bằng những trang ký trữ tình, với văn phong mềm mại, hấp dẫn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa đậm nét yếu tố văn hóa đặc trưng này. Trong Hoa trái quanh tôi, nhà văn viết: “Có lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là “bản sắc Huế”. Từ cái nhìn đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường say sưa viết về những khu vườn Huế. Không có sự am tường về văn hóa vườn, khó có thể viết được những trang thú vị về vườn Huế như thế.
 
     Những bức tranh thiên nhiên trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường mang một nét Huế riêng, nhà văn rất có ý thức làm rõ nét đặc thù của không gian xanh sâu của Huế. Viết về Thành phố và chim, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng kêu lên như thảng thốt ngạc nhiên “Chưa cần đến âm nhạc, Huế từ trong tâm hồn nó đã mang sẵn một mêlôđy của riêng mình. Là thành phố vườn, Huế tràn đầy âm do thiên nhiên ban cho: dàn đồng ca của ve sầu mùa hè, tiếng hát trong và cao vút của ve kim như tiếng đàn viôlông mùa thu, lời nỉ non của côn trùng trong những khu vườn mùa đông, và cả bốn mùa, ôi Huế bốn mùa đầy tiếng chim”. Trong mẩu bút ký Khói và mây, Hoàng Phủ Ngọc Tường kỳ công tả một tiếng ve, một thứ âm thanh có lẽ trở thành của Huế mỗi lúc mùa hạ trở về: “Khu vườn Nhà Chung trước mặt nhà tôi đầy tiếng ve. Ve sầu kêu rất đúng giờ, cứ cách nhau vài tiếng thì lại dấy lên cùng một lúc như một dàn nhạc giao hưởng, khiến cho mùa hè ở Huế có một âm thanh riêng. Đến già nửa mùa hè thì ve sầu im tiếng nhường chỗ cho tiếng ve kim. Ve kim kêu li ri như tiếng vĩ cầm, báo hiệu mùa thu sắp đến”. Nhà văn khẳng định: “Thật hiếm có thành phố nào mà tiếng ve lại xen lẫn với tiếng xe cộ như ở Huế. Rõ ràng Huế là một thành phố vườn. Tôi có cái thú lên chơi ở những khu vườn ngoại ô vào dịp đầu thu. Ở đó trong ngọn gió heo may lành lạnh, tôi còn bắt gặp trên những thân cây trong vườn những chiếc vỏ khô của con ve sầu. Mùa hè đã đi qua song trời đất còn để lại một chút dấu tích trên những xác ve sầu”.
 
     Huế là một thành phố xanh, người Huế sống gần gũi, gắn liền với thiên nhiên nên môi trường xanh ấy có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tìm hiểu tính cách con người của vùng đất kinh kỳ cũ. Văn hóa vườn tiềm ẩn trong cách sống, cách ăn uống và cả cách ứng xử của người Huế. Nét văn hóa ứng xử đó đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện tinh tế qua một thể loại ngỡ chỉ là ghi chép sự kiện. Nét văn hóa Huế in sâu trong những dòng chữ, câu văn khi anh tìm thấy sự tương giao giữa người Huế và thiên nhiên. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Tưởng không cần nhiều hơn để nhận ra rằng có bao nhiêu điều trong đời sống nội tâm của người Huế đã hình thành qua tình bạn lâu dài với chim đến nỗi người ta đã mang theo tiếng chim vào âm nhạc để cố gắng đạt tới nỗi lòng, như trong bài Lý qua đèo”.
 
     Viết về mối quan hệ thân thiết giữa thiên nhiên và con người, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đơn cử một cách ứng xử đầy nghĩa tình của người Huế với cây xanh. Theo anh: “Cho đến nay, người Huế vẫn còn duy trì một phong tục cổ xưa về tình bạn cao quý đó. Khi người chủ vườn qua đời thì những người già đem buộc băng tang vào những cây quý trong vườn để cây khỏi tàn lụi theo, vì người ta tin rằng cây cũng vui buồn cùng với con người”. Người Huế chăm chút vườn “với tất cả ý thức văn hóa và đã nhận lại từ cây cối những lời ngụ ngôn thầm lặng” (Hoa trái quanh tôi)..
 
     Trong văn hóa ứng xử của người Huế có một tục tạ ơn đầy chất nhân văn – đó là tục tạ ơn cây của những người làm vườn xưa. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cung cấp cho người đọc một phong tục nhân hậu, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa vườn cây và con người (Hoa trái quanh tôi). Nhân vật bà Lan Hữu trong mẩu ký đã nhỏ nhẹ tâm sự: “Người làm vườn xưa có tục tạ ơn cây. Cuối năm có cái lễ nhỏ, có hột nổ, pháo và ít giấy vàng bạc dán vào gốc cây. Không phải thờ cúng thần thánh chỉ là mình đã nhận của nó nhiều thì trả lại cho nó chút ít. Cô không làm như người ta, nhưng con người biết ơn cây là phải”. Có thể nói đó là cách ứng xử rất Huế.
 
     Như tất cả những ai quan tâm đến môi trường thiên nhiên xứ Huế, lại là nhà văn nhạy cảm với mối quan hệ giữa con người và môi trường, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhiều lần lên tiếng báo động về sự hủy hoại thiên nhiên trong lành của Huế. Trong mẩu ký Thành phố và chim, Hoàng Phủ Ngọc Tường day dứt: “Bây giờ thì tất cả đã bay về phương trời nào không biết… Bây giờ thành phố vắng bóng chim, hầu như chim chóc đã bỏ Huế mà đi. Nguồn cơn ấy bởi vì đâu? “. Bằng nỗi trầm tư đầy tâm huyết người thi sĩ thiên nhiên ấy đã lên tiếng đánh động về sự hủy hoại môi trường của vùng đất kinh kỳ cũ và tìm giải pháp nhằm bảo vệ thiên nhiên vườn Huế, để một ngày nắng ấm những cánh chim lại bay về – “những đàn còn hoàng hôn, lũ quạ mùa mít chín, con chim ca cút kêu đò, con chim khách lẫn vườn cau, con chim chèo bẻo lẫn cây măng vòi, và sau cùng, cả con chim bói cá sặc sỡ bay vù qua ký ức tuổi thơ của tôi, mê hoặc như ảo ảnh” (Thành phố và chim).
     Huế trong những trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang âm hưởng huyền hoặc của những thành quách rêu phong, những khu vườn trầm mặc, cổ kính, những rừng thông u tịch, nét trữ tình của núi Ngự sông Hương. Đã từ lâu sông Hương núi Ngự đã trở thành biểu tượng gắn kết trong thơ văn. Trong đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Huế, sông Hương núi Ngự mang vẻ đẹp cân xứng, hài hòa. Nhà văn đã tìm thấy trong vẻ đẹp sơn thủy hữu tình này một sự hòa nhập “văn hóa dòng sông”, và “văn hóa núi”. Sông Hương đã trở thành đối tượng thẩm mỹ của thơ ca nhạc họa, nhưng chỉ dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông thi ca này mới được soi chiếu từ nhiều phía. Dòng Hương chảy tràn trên những trang ký của anh, nhiều dáng vẻ. Có khi sông Hương là “một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại, có khi là “mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, có lúc sông Hương trở thành “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đến với những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc có dịp hiểu rõ thêm về cội nguồn sông Hương và văn hóa Huế. Sông Hương và “văn hóa sông ngòi” ấy dường như được Hoàng Phủ Ngọc Tường thu tóm lại trong một mẩu huyền thoại đẹp khép lại những trang ký bộc lộ một cái tôi trầm tư và nồng cháy suy tư: “Ai đã đặt tên cho dòng sông? Có nhiều cách trả lời cho câu hỏi ấy. Trong đó, tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông, để làn nước thơm tho mãi mãi. Tôi lĩnh hội ý của truyền thuyết ấy như thế này: con người đã đặt tên cho dòng sông như nhà thơ chọn bút hiệu của mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử”.
 
     Không thể kể ra hết những câu, những chữ, những lóng lánh tài hoa trên những trang ký viết về sông nước thiên nhiên của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Không thể trích dẫn hết những câu vào loại “tuyệt bút” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường có những câu đẹp như không phải là viết mà như trào ra từ đầu ngọn bút trong một “phút linh” không trở lại. Và tôi chợt hiểu vì sao nhà văn Tô Hoài, một trong những bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ, khi giới thiệu tập ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không viết gì thêm ngoài chính những dòng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, để rồi cuối cùng bật thốt lên: ” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trằm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế”. Trong mọi không gian và thời gian, dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế hiện ra quen thuộc mà lạ lẫm đến bất ngờ. Bằng những con chữ có hồn anh đã góp phần làm nổi rõ bản sắc của thiên nhiên Huế và con người Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp cho ký Việt một tiếng nói riêng của một nhà văn rất Huế.
 
3.      Sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân nhận định: “Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”. Hẳn rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp nhận rất nhiều ánh lửa của đời sống và luôn giữ cho tâm hồn mình nồng ấm. Chất lửa ấy là một phần tâm hồn của nhà văn. Niềm tin về cuộc sống của nhà văn thật lớn lao. Giữa bao nhiêu thăng trầm cuộc sống, anh tin rằng “chim phượng hoàng sẽ bay về núi cũ, bầy ong mật sẽ sống lại trên những hoa rừng nở đầy thung lũng”. Niềm tin ấy đã giúp anh vượt qua hết mọi trắc trở kiếp người, để hôm nay Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường như một món quà tinh thần to lớn anh dành cho cuộc đời.
Một nhà văn lớn phải là một nhà văn vượt ra khỏi giới hạn của văn học vùng, văn học địa phương để trở thành nhà văn dân tộc và vươn đến ngưỡng cửa thế giới. Tôi tin rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đạt được điều đó. Nhưng dẫu sao vẫn cứ muốn dành Hoàng Phủ Ngọc Tường cho Huế, bởi từ lâu anh đã làm một mảnh hồn thân thuộc của Huế rồi. Xin được mượn những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo để hiểu thêm về “người thi sĩ thiên nhiên”:
 
Sao thèm một điệu gì xưa lắm
 
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
 
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
 
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.
 
Huế, tháng 5/2002

Nhận định 3: Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn của những dòng sông

     Suốt 13 năm nay, những người dân ở bên bờ sông Hương đoạn chạy qua thành phố Huế cứ mỗi tháng một đôi lần lại gặp cảnh một ông lão trạc tuổi 70 ngồi trên xe lăn, được vợ đẩy xe đi dạo trên bờ sông Hương. Có lần người ngồi trên xe còn yêu cầu được đẩy xe xuống thuyền nghe ca Huế. Đó là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả của những áng văn thơ nổi tiếng về những dòng sông như “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. 13 năm sống trên giường bệnh, phải di chuyển bằng xe lăn là 13 năm ông nhớ thương những dòng sông, như ông nói: “Những dòng sông luôn mang lại cảm xúc sáng tác cho tôi, đã nuôi dưỡng tâm hồn văn học tôi từ nhỏ cho đến bây giờ và mãi mãi sau này”.  
 
     Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra và lớn lên tại Huế nên từ nhỏ ông đã gắn bó với dòng Hương Giang. “Ngoài những giờ lên lớp, mỗi ngày tôi đều tắm sông cùng với nhóm bạn học, ngày nào không ra sông lại thấy hụt hẫng như thiếu một điều gì đó”, nhà văn kể lại. Ông nói rằng chính sông Hương đã nuôi mạch máu văn chương trong con người ông, giúp những mạch máu ấy lan toả và sống mãi cho đến hôm nay: “Những kỷ niệm thời ấu thơ như những đêm nghe ca Huế dù đã cách nay hơn nửa thế kỷ nhưng tôi vẫn không quên. Ngày đó những đêm ca Huế không sân khấu đèn màu, không micro, người nghe ngồi bệt dưới nền đất để thưởng thức âm nhạc… Những kỷ niệm dung dị đó đã ám ảnh suốt những năm tháng tôi xa sông Hương sau này, để bài ký đầu tiên trong cuộc đời sáng tác của tôi là con sông quê hương”, nhà văn tâm sự.
 
     “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, “Sử thi buồn”… và rất nhiều sáng tác khác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đều có dấu ấn của sông Hương thơ mộng. Xa Huế, nhà văn nhớ nhất dòng sông. Vậy nên dù ông và gia đình đã nhiều lần vì công việc phải chuyển ra Hà Nội sinh sống, hoặc vào Thành phố Hồ Chí Minh nhận công tác, nhưng cuối cùng nhà văn đều bỏ lại cảnh phố thị tấp nập, đưa vợ con về Huế chỉ vì không chịu nổi nỗi nhớ sông Hương.
 
     Hoàng Phủ Ngọc Tường ví sông Hương như một cô gái di-gan, tức thiếu nữ mang trên mình vẻ đẹp dịu dàng pha chút hoang sơ, man dại của núi rừng, nhưng lại có lúc hiền hòa như một thiếu nữ hiền thục. “Giúp tâm hồn thi sĩ, nghệ sĩ yên tĩnh, là bối cảnh sống để suy nghĩ và viết về cuộc sống một cách sâu sắc nhất”, ông nói.
 
     Hoàng Phủ Ngọc Tường kể lại, trước khi mắc bệnh phải chịu ngồi xe lăn, ông đã có hàng chục năm rong ruổi khắp những vùng đất từ Bắc chí Nam. Nhà văn có một trải nghiệm: “Dòng sông là nơi mang nhiều yếu tố văn hoá của con người, vùng đất ở những nơi sông chảy qua”, nên đi tới đâu ông cũng đặc biệt quan tâm đến những dòng sông. Nhà văn đã từng có nhiều lúc đứng lặng hàng giờ trên bờ đê sông Hồng mà so sánh rằng “Sông Hồng như một mạch máu lớn nuôi sống Thủ đô. Nước sông theo kênh mương toả đi khắp nơi như mạch máu chảy dọc cơ thể người”.
 
     Ông lão ngồi xe lăn này cũng là người đã từng đi dọc dòng sông Cửu Long đoạn chảy qua Việt Nam dài chừng 250 km. Dòng Cửu Long cuồn cuộn chảy, phóng khoáng và dân dã như tính tình hồn hậu của người miền Tây. “Bữa cuối cùng về tới Cà Mau khi trời đã chập tối, người dân xung quanh đến mời về nhà nghỉ lại, còn đồng chí Chủ tịch ủy ban xã thì mua nguyên xô rượu về đãi khách. Dòng sông không chỉ dân dã nồng hậu như thế, mà còn có những khoảng lặng, như một chiều đến ngã ba sông, tôi bắt gặp hình ảnh người mẹ vừa cho con bú vừa bán hàng trên chợ nổi giữa vùng sông nước mênh mông. Lúc đó thấy cảm giác rưng rưng trong lòng, mà sau này những hình tượng ấy đã là chất liệu, đã phảng phất trong nhiều bài ký khác của tôi”, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhớ lại.
 
     Hoàng Phủ Ngọc Tường tự nhận mình có duyên nợ với những dòng sông. Trong lần về quê nội Quảng Trị, nhà văn rung động trước cảnh người mẹ chèo đò đưa quân sang sông Bến Hải. “Khi tôi hỏi, mẹ nói rằng con mẹ đã hy sinh trên dòng sông này nên mẹ căm thù lũ giặc cướp nước, mẹ thề sẽ chèo đò đưa bộ đội cho đến khi không còn sức để giữ tay chèo được nữa. Chính cảm xúc của bà mẹ anh hùng khiến tôi kính trọng đã là đề tài của nhiều tác phẩm tôi viết sau này”, nhà văn nói.
 
     Mùa hè 1998, nhà văn bị tai biến sau một đêm thức khuya, khi được đưa đến cấp cứu tại bệnh viện, bác sĩ chẩn đoán sẽ có khả năng ông bị liệt tay, chân. Nhiều người lúc đó nghĩ rằng ông sẽ suy sụp, buồn chán mà bỏ bút giấy. Tuy nhiên chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khiến mọi người phải thán phục trước nghị lực phi thường của mình: “Lúc đó tôi chỉ lo mình không đủ thời gian để viết hết những gì đã ấp ủ bấy lâu nay, bao nhiêu công việc dang dở còn chờ mình phải hoàn thành sao dễ dàng gục ngã như vậy được”, nhà văn bộc bạch.
 
     Tay bị liệt không thể cầm bút nên ông suy nghĩ rồi đọc cho vợ ghi ra giấy hoặc đánh trực tiếp lên máy vi tính. Sau đó ông chăm chú nghe lại từng chữ một và chỉnh sửa từng câu. Đã 13 năm 2 tháng kể từ ngày ngã bệnh đến nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cho xuất bản hàng trăm trang sách bằng cách viết văn như thế. Những tác phẩm như “Huế- di tích và con người”, “Rượu hồng đào chưa uống đã say”… là thành quả của ông trong suốt thời gian dài lao động trên giường bệnh. Ông nói: “Không thể đi đây, đi đó được nữa nên chỉ còn cách nhớ lại những kỉ niệm, kể lại những câu chuyện mà mình từng chứng kiến trong những năm tháng rong ruổi dọc đất nước, dọc những dòng sông”.
 
     Hoàng Phủ Ngọc Tường nhẩm tính, ông đã từng gặp hầu hết những dòng sống chảy trên đất mẹ Việt Nam. Từ sông Hương, bước chân của ông đã đến đoạn sông Hồng chảy vào đất Việt Nam, con sông Đà hoang sơ, sông Bến Hải, những ngọn suối góp nước thành sông chảy dọc dãy Trường Sơn, rồi chín cửa sông dòng Cửu Long đổ ra biển lớn… “Tôi nhớ những con sóng vỗ bờ, vỗ mạn thuyền những đêm nằm thao thức. Đã xa rồi, đã lâu rồi không nghe lại tiếng sóng thân quen ấy, nhưng dường như những tiếng sóng ấy đã tạo cho tôi ý chí vươn lên trong cuộc sống”, nhà văn tâm sự.
 
     Hoàng Phủ Ngọc Tường mắt ngóng ra khoảng xa xăm ngoài khung cửa sổ: “13 năm nay, nhờ có những dòng sông trong ký ức, nên dù phải ngồi một chỗ nhưng tâm hồn tôi lúc nào cũng hướng ra bên ngoài, vui cùng cuộc sống. Bảy cuốn bút ký viết trên giường bệnh của tôi có đóng góp lớn nhờ hoài niệm về những dòng sông. Mỗi khi mệt mỏi chực gục ngã, tôi lại thúc mình phải vươn lên như những đợt sóng vỗ mãi không mỏi”, giọng ông ngắt quãng bởi những cơn ho.
 
     Trong bài ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, ở đoạn cuối tác giả đặt câu hỏi bâng quơ: “Ai đã đặt tên cho dòng sông Hương? Có nhiều cách trả lời cho câu hỏi ấy, trong đó tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bên bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông, để làn nước thơm tho mãi mãi…”. Niềm thương nhớ những dòng sông đã tạo nên một cây bút Hoàng Phủ Ngọc Tường, và có người nói: “Sông miệt mài chảy về biển lớn không ngơi nghỉ và Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng chính là một dòng sông, miệt mài sáng tác không ngơi nghỉ để đóng góp cho đời những áng văn thơ hay”.
Like share và ủng hộ chúng mình nhé: