Liên hệ mở rộng Vợ chồng A Phủ với tác phẩm khác và với một số nhận định

Liên hệ mở rộng Vợ chồng A Phủ với tác phẩm khác và với một số nhận định. Liên hệ mở rộng là một phần không thể thiếu trong bài văn nghị luận văn học. Nếu như muốn bài viết của mình được điểm cao, tạo dấu ấn trong mắt giám khảo, hãy “tô vẽ” cho phần liên hệ này một cách khéo léo nhé! Thường gặp nhất là các bạn có thể liên hệ mở rộng với các tác phẩm khác hoặc liên hệ mở rộng với nhận định.
Liên hệ mở rộng Vợ chồng A Phủ với tác phẩm khác
Liên hệ mở rộng Vợ chồng A Phủ với tác phẩm khác
 

Vợ chồng A Phủ liên hệ với những tác phẩm nào

1. “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Vợ nhặt” của Kim Lân là hai truyện ngắn đều viết về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động. Em hãy phân tích hai truyện ngắn trên trong mối quan hệ đối sánh để nêu bật đặc sắc riêng của từng tác phẩm.
 
2. “Nghệ thuật vị nhân sinh” là giá trị nhân văn cao cả trong nghệ thuật. Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo là hai tác phẩm điển hình và thành công cho tư tưởng vĩ đại này. Qua việc so sánh sự hồi sinh của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ và nhân vật Chí trong Chí Phèo, chúng ta sẽ thấy được sự thức tỉnh trong nhân tâm của hai nhân vật.
 
3. Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12 – Tập 2, NXB GD Việt Nam 2016). Từ đó, liên hệ với tâm trạng của hai chị em Liên trong cảnh đợi tàu (Hai đứa trẻ – Thạch Lam, Ngữ văn 11 tập 1, NXB GD Việt Nam 2016) để nhận xét về cách nhìn và tình cảm của nhà văn đối với người lao động trong xã hội cũ.

Liên hệ mở rộng Vợ chồng A phủ với một số nhận định

1. “Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ.” (Phạm Xuân Nguyên – Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội)

2. “Ông là cây đại thụ cuối cùng của lớp tác giả văn xuôi thời kì Cách Mạng.” (Hà Minh Đức)

3. “Bản chất của văn chương Tô Hoài là phong cách, bút pháp đậm đà bản sắc dân tộc. Phẩm chất ấy là sự tích tụ của cả một đời gắn bó với đất nước và nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những con người lao động mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam” (Hà Minh Đức)

4. “…Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt”

5. Nói về Mị, nhà văn Tô Hoài tâm huyết rằng: “Số phận của cô là sự hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá.”

6. “Thật khó để tìm được một nhà văn thứ hai vừa có thể miêu tả chân thật, tinh tế những cung bậc cảm xúc của cô Mị yêu sống nhưng bị giam cầm trong cảnh tù túng của “Vợ chồng A Phủ” (Phan Anh Dũng)

7. “Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.” (Tô Hoài)

Liên hệ mở rộng Vợ chồng A Phủ với Hai đứa trẻ

Dàn Ý Từ Truyện Ngắn Vợ Chồng A Phủ Liên Hệ Với Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ

1. Mở bài
 
· Giới thiệu về tác giả Tô Hoài: Một trong số những nhà văn lớn, có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại với một phong cách nghệ thuật rất riêng, độc đáo và hấp dẫn
· Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ: Là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của ông
· Giới thiệu vấn đề nghị luận
 
2. Thân bài
 
a) Cảm nhận về nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
· Khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn “thản nhiên ngồi sưởi lửa”
· Khi nhìn thấy “dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen của A phủ” Mị đã hoàn toàn thay đổi
· Mị thấy “chúng nó thật ác”.
· Mị nảy ra ý định cứu A Phủ, nhưng lại sợ “Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể đến một lúc nào, biết đâu A Sử chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liến phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy…(Còn tiếp).

Bài Văn Mẫu Từ Truyện Ngắn Vợ Chồng A Phủ Liên Hệ Với Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ

Tô Hoài là một trong số những nhà văn lớn, có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại với một phong cách nghệ thuật rất riêng, độc đáo và hấp dẫn. Và có thể nói, Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của ông. Đọc Vợ chồng A Phủ, người đọc sẽ không thể nào quên hình ảnh của nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ. Đồng thời, thông qua nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ cùng tâm trạng của chị em Liên đợi tàu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, chúng ta có thêm cách cảm nhận sâu sắc hơn về tình cảm của nhà văn đối với người lao động trong xã hội cũ.
 
Như chúng ta đã biết, Mị là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra và cũng kể từ ngày về làm dâu, Mị như mất hết đi sức sống, tê liệt hoàn toàn về mặt cảm xúc. Nhưng khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng trong đêm, dường như đã khiến Mị thay đổi và sức sống tiềm tàng trong Mị lại trỗi dậy.
 
Thoạt đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn “thản nhiên ngồi sưởi lửa”. Mị vô tâm, thản nhiên như thế cũng dễ hiểu thôi, bởi trong nhà Pá Trá từ trước đến nay điều đó đâu có gì lạ lẫm. Những tưởng, Mị vẫn sẽ thản nhiên ngồi sưởi lửa như thế, nhưng không, khi nhìn thấy “dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen của A phủ” Mị đã hoàn toàn thay đổi. Giọt nước mắt ấy của A Phủ đã đánh thức trong Mị bao nỗi niềm xúc cảm. Mị thấy thương, thấy đồng cảm với A Phủ và thương cho chính cả số phận của mình nữa. Để rồi, Mị nghĩ và Mị thấy “chúng nó thật ác”.
 
Có lẽ, trong cuộc đời mình, suốt trong những tháng ngày sống kiếp trâu ngựa, Mị chưa bao giờ biết yêu, biết ghét nhưng giờ đây, Mị cảm nhận thấy nhà Pá Tra thật ác, rồi Mị nảy ra ý định cứu A Phủ, nhưng lại sợ “Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể đến một lúc nào, biết đâu A Sử chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liến phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế trong tình cảnh này, làm sao Mị không thấy sợ…” . Mị sợ cũng là điều dễ hiểu, nhưng rồi đến cùng, tình thương đã lấn át mọi nỗi sợ hãi và Mị quyết định giải cứu A Phủ, cũng như quyết định bỏ trốn cùng A Phủ. Mị cắt đứt sợi dây để giải cứu cho A Phủ và cũng chính là giải cứu cho cuộc sống tù túng, bị giam hãm của mình. Hành động ấy của Mị không phải là bộc phát mà là một tất yếu, phù hợp với logic phát triển tâm lí của nhân vật. Đồng thời, qua việc miêu tả Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ, chúng ta cảm nhận được tài năng miêu tả tâm lí, cách sử dụng từ ngữ độc đáo và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn Tô Hoài đối với những người lao động nghèo khổ, bị áp bức trong xã hội xưa.
 
Thêm vào đó, từ việc phân tích nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ, chúng ta nhớ tới hình ảnh của chị em Liên trong cảnh đợi tàu ở truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Có lẽ, với chị em Liên nói riêng, những người dân nơi phố huyện nghèo nói chung, đợi chuyến tàu đi qua mỗi đêm đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Đêm nào cũng vậy, chị em Liên cũng thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua với một tâm trạng háo hức bởi lẽ, đấy là chuyến tàu từ Hà Nội về. Chuyến tàu ấy gợi lại trong chị em Liên biết bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ nhưng hơn hết còn bởi, chuyến tàu ấy đi qua và “mang theo một thứ ánh sáng khác”. Đó là ánh sáng của những ngày mai tươi sáng, của những điều tốt đẹp mà những người dân phố huyện và cả chị em Liên hằng ao ước. Chính vì thế, tâm trạng háo hức đợi tàu mỗi đêm của chị em Liên xét đến cùng là niềm khao khát về một thế giới mới, một cuộc sống mới và về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Đồng thời, qua cảnh đợi tàu, chúng ta nhận thấy tấm lòng yêu thương và sự trân trọng của nhà văn Thạch Lam với những khát khao bình dị, chính đáng của những người dân nơi phố huyện nghèo.
 
Như vậy, ta thấy rằng cả nhà văn Tô Hoài và nhà văn Thạch Lam đều viết rất hay, rất độc đáo và phản ánh một cách chân thực về cuộc sống của những người lao động khốn khổ trong xã hội. Đồng thời, viết về họ, cả hai nhà văn đều thể hiện cái nhìn đồng cảm sâu sắc và sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp tâm hồn và những khát khao, những ước mơ tươi sáng của họ. Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy, mỗi nhà văn cũng có những điểm khác nhau, tạo nên nét độc đáo riêng trong sáng tác của họ. Nếu như trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn Thạch Lam dành cái nhìn thương cảm, xót xa cho những người dân phố huyện nghèo, sống mòn mỏi, khổ cực và luôn chờ đợi cuộc sống khác từ những chuyến tàu đêm thì với nhà văn Tô Hoài, ông đã khám phá và khẳng định sức sống tiềm tàng, khả năng phản kháng và sự đấu tranh để tự giải phóng mình, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn của những người lao động nghèo khổ.
 
Sở dĩ, cả hai nhà văn đều có những điểm gặp gỡ nhau trong phản ánh hiện thực và thể hiện tình cảm với các nhân vật bởi cả hai đều là những nhà văn có tấm lòng nhân đạo và tình cảm yêu thương con người sâu sắc. Song, ở hai ông vẫn có những điểm khác biệt. Sự khác biệt ấy xuất phát từ đặc trưng của văn học – văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, nó không cho phép sự lặp lại. Thêm vào đó, mỗi nhà văn có một phong cách sáng tạo nghệ thuật khác nhau, tạo nên dấu ấn riêng của mỗi người.
 
Tóm lại, tuy cách viết khác nhau và ở hai giai đoạn văn học khác nhau, nhưng qua cách xây dựng tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ của Tô Hoài và tâm trạng chị em Liên trong cảnh đợi tàu của Thạch Lam, người đọc hiểu hơn về tấm lòng trân trọng của nhà văn với ước mong giản dị, cao đẹp của con người trong xã hội xưa.

Liên hệ tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo

Dàn ý so sánh sự hồi sinh của Mị và Chí trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo

1. Mở bài so sánh sự hồi sinh của Mị và Chí trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo 

  • Giới thiệu hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo cũng như hai nhân vật.
  • Đề cập đến sự hồi sinh và thức tỉnh của nhân vật Mị và Chí Phèo.

2. Thân bài so sánh sự hồi sinh của Mị và Chí trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo 

  • Tìm hiểu về tư tưởng của hai tác giả trong hai tác phẩm.
  • Khái niệm sự thức tỉnh của các nhân vật trong văn học là gì?.
  • Tìm hiểu Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo qua sự hồi sinh của Mị và Chí.
  • Nhân vật Chí Phèo của Nam Cao.
  • Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ.
  • Sự khác biệt trong quá trình hồi sinh nhân tính của Mị và Chí Phèo.
  • Đánh giá về sự hồi sinh của nhân vật trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo.

3. Kết bài so sánh sự hồi sinh của Mị và Chí trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo 

  • Khẳng định tư tưởng của mỗi tác phẩm khi so sánh sự hồi sinh của hai nhân vật trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo.
  • Nhấn mạnh đến ý nghĩa của các nhân vật khi so sánh sự hồi sinh của Mị và Chí trong hai tác phẩm này.

Bài viết Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo qua sự hồi sinh của Mị và Chí

Để hiểu rõ hơn về sự hồi sinh nhân tính của Mị và Chí trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo, chúng ta hãy cùng tìm hiểu cụ thể về từng nhân vật trong quá trình hồi sinh nhân tính.
 
Nhân vật Chí Phèo của Nam Cao
 
Trước khi hồi sinh nhân tính, trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo thì cả Chí và Mị đều có những số phận và bi kịch đau đớn giống nhau.
 
Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ, ở thuê cho nhà bá Kiến. Vì sự ghen tuông của bá Kiến mà Chí bị đẩy vào nhà tù thực dân. Trong nhà tù thực dân ấy, oan trái thay, lại tiếp nhận con người khi người ta vô tội, lương thiện và trả người ta ra khi họ đã trở thành kẻ tha hóa, mất đi cả nhân hình và nhân tính.
 
Về nhân hình, Chí là một con vật lạ với khuôn mặt “vằn dọc vằn ngang không biết bao nhiêu là sẹo”, về nhân tính, Chí là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, một kẻ chuyên rạch mặt ăn vạ và làm tay sai đòi nợ cho bá Kiến. Bi kịch đau đớn nhất của Chí Phèo là “bị từ chối quyền làm người, cha mẹ từ chối Chí, dân làng cũng từ chối Chí”.
 
Trong quá trình so sánh Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo, người đọc cũng thấy rằng Chí rơi vào bi kịch vì không có ai đón nhận Chí trở về với cái xã hội bằng phẳng. Nếu như là con người thì đâu ai dám vạch mặt mình như vậy, đâu ai dám sẵn sàng đâm thuê, chém mướn, chỉ vì đồng tiền, đâu dám “đốt quán” của “bà bán rượu” nhưng Chí đã trở nên mất đi “tính người”, mất đi “nhân tính” như vậy.
 
Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
 
Mị cũng là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi và hiếu thảo, và Mị cũng phải chịu một số phận đau đớn không kém Chí Phèo là mấy. Mị phải trở thành “con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra”. Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái, ngồi quay sợi, thái cỏ ngựa,… lúc nào cô ấy cũng cúi mặt buồn rười rượi.
 
Mị giống như một con rùa được nuôi trong xó cửa. sống ở nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như những người phụ nữ trong nhà này, làm việc tối ngày bận bịu. Nếu như Chí Phèo của Nam Cao mong muốn được giao tiếp với con người thì Mị lại không buồn giao tiếp. Mị lúc nào cũng lầm lũi, cô cũng mất đi tính người nhưng “tính người” bị mất đi ở đây khác với Chí.
 
Khi so sánh sự thức tỉnh của hai nhân vật trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phéo, chúng ta nhận thấy, nếu như Chí Phèo bị tha hóa về nhân tính, trở thành một con quỷ dữ thì Mị lại mất đi nhân tính ở chỗ cô không được coi là một con người. Sống ở nhà thống lí Pá Tra, MỊ như một “con trâu, con ngựa”. Bởi con trâu, con ngựa còn có lúc nghỉ ngơi, đằng này Mị phải làm quần quật suốt cả ngày. Chính vì cuộc sống như vậy mà Mị đã trở thành một con người mất đi sức sống.
 
Sự khác biệt trong quá trình hồi sinh nhân tính của Mị và Chí Phèo
 
Tuy có những nét giống nhau về số phận và cuộc đời, song quá trình hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị lại rất khác nhau.
 
Sự hồi sinh nhân tính của Chí là sau đêm gặp thị Nở, chính tình người của thị Nở đã đánh thức “nhân tính” trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy. Thị là người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Thế nhưng, bên trong cái ngoại hình xấu xí và tính cách dở hơi của thị là một tấm lòng rất bao dung và vị tha. Sau một đêm ăn nằm với nhau, sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí lần đầu tiên để tâm lắng tai nghe những âm thanh xung quanh mình, những âm thanh của cuộc sống và cảm thấy cuộc sống cũng thật thú vị.
 
Và Chí thèm được làm người lương thiện. Khát vọng lương thiện ấy chính là bằng chứng cho sự hồi sinh nhân tính của Chí. Chí nhớ lại cuộc đời mình trước khi bị đẩy vào nhà tù thực dân với những ước mơ hết sức bình dị. Chí nhận ra rằng thị Nở cũng có duyên và muốn cùng thị chung sống. Chí đã mong muốn được làm người và thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí trở về với con người lương thiện.
 
So sánh Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo, ta thấy nhờ có tình người của thị mà Chí hồi sinh nhân tính, khao khát được sống một cuộc sống lương thiện. Với Mị sức sống hồi sinh nơi người con gái ấy là tiếng sáo vi vu gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân Tây Bắc. Mùa xuân, mùa của sức sống mãnh liệt. Mị sống trong nhà thống Pá Tra như một con người đã mất đi linh hồn.
 
Thế nhưng, trong đêm tình mùa xuân năm ấy, khi cái lạnh tràn về, khi những thiếu nữ phơi “chiếc váy xòe như những cánh bướm của mình trên những phiến đá” và đám trẻ con chơi đùa và tiếng sáo gọi bạn tình đã bắt đầu xuất hiện. Mị dường như được sống lại với chính tâm hồn mình. Cô hồi tưởng lại quá khứ khi được cùng người yêu đi chơi trong những đêm tình mùa xuân.
 
Cũng giống như Chí, Mị cũng hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, khi Mị còn là người con gái đẹp có tài thổi sáo rất hay. MỊ uống rượu và khi ngà ngà say, Mị bỗng nhiên nghe thấy tiếng sáo gọi bạn tình và Mị cũng muốn đi chơi. Mị muốn đi chơi như hồi còn trẻ. Mị vào góc nhà xắn thêm ít mỡ bỏ vào chiếc đèn cho sáng, với tay lấy chiếc váy.
 
Những hành động ấy chứng tỏ rằng Mị đã thật sự hồi sinh, sức sống tiềm tàng trong con người Mị đã được sống dậy nhờ âm thanh của tiếng sáo. Cũng giống như Chí Phèo âm thanh của cuộc sống xung quanh thức tỉnh tâm hồn, đánh thức sức sống mãnh liệt của Mị. Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, ngay cả khi Mị đã bị A Sử trói chặt vào cột nhà. MỊ đã thả hồn bay theo tiếng sáo của đêm tình mùa xuân. Mị vô thức, Mị không cảm thấy đau đớn vì lúc này sự hồi sinh nhân tính của Mị rất mạnh mẽ.
 
Chí Phèo và Mị đều được hồi sinh nhân tính. Sự hồi sinh ấy cho ta thấy cái nhìn nhân đạo của Nam Cao và Tô Hoài. Phải thực sự yêu thương cảm thông với nhân vật của mình, hai nhà văn mới có thể để cho họ hồi sinh nhân tính như vậy. Với Chí Phèo là trở về với cuộc sống lương thiện, còn với Mị là được bộc lộ sức sống tiềm tàng của cô.
 
Cả Nam Cao và Tô Hoài đều rất xót thương, đồng cảm cho số phận của Chí Phèo và Mị, trân trọng nhưng ước mơ bình dị của họ. Mặt khác, từ sự hồi sinh về nhân tính của Chí Phèo và Mị, họ đã nói lên tiếng nói phê phán gay gắt những thế lực chà đạp lên số phận của con người bất hạnh ấy. Cái xã hội với những tàn dư phong kiến, bá Kiến đã đẩy Chí vào sự tha hóa.Và những hủ tục cổ hủ của miền núi với kẻ thông trị gian ác, tham lam như thống lí Pá Tra đã cướp sạch, bào mòn sức sống của Mị.
 
Nhận xét về sự hồi sinh của nhân vật trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo
 
Mặt dù, viết về những đề tài khác nhau, nhưng cuộc đời và số phận của các nhân vật trong Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo đều là sự trải nghiệm, dày công tìm tòi của các nhà văn. Thông qua các nhân vật của mình nhà văn muốn nói lên tiếng lòng, sự cảm thương cho số phận của họ. Đó chính là những giá trị nhân đạo của tác phẩm.
 
Giá trị nhân đạo là giá trị căn bản của một tác phẩm văn học chân chính” và hạt nhân cơ bản của giá trị ấy là lòng yêu thương con người. Giá trị vĩ đại này đã được thể hiện rất thành công qua hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo. Qua đó, chúng ta cũng thấy được tấm lòng và sự cảm thông trân trọng mà Tô Hoài và Nam Cao đã dành cho nhân vật của mình.

Mở rộng Vợ chồng A phủ với Vợ nhặt

Like share và ủng hộ chúng mình nhé: